Vòng nhẫn cưới đó chia đôi...

TAND huyện Cần Đước (Long An) vừa xử sơ thẩm vụ ly hôn giữa chị NTTH (xã Tân Lân) và anh NCL (xã Mỹ Lệ). Chuyện vợ chồng mâu thuẫn, không thể sống chung, mục đích hôn nhân không đạt được thì ly hôn là điều bình thường. Nhưng ly hôn mà đòi chia cả đồ trang sức của cô dâu được tặng cho khi cưới như trong vụ này thì quả là điều hiếm thấy.

Gà qué, vòng vàng đều chia ráo

Cuối năm 2014, chị H. nộp đơn ra TAND huyện xin ly hôn. Chị trình bày vợ chồng tổ chức cưới vào năm 2007, đến tháng 8-2008 đăng ký kết hôn tại UBND xã Mỹ Lệ. Thời gian đầu hôn nhân rất hạnh phúc. Vợ chồng có con trai, con gái đủ cả. Nhưng từ tháng 9-2012, cả hai phát sinh mâu thuẫn và một tháng trước khi chị nộp đơn ly hôn, hai người đã sống ly thân. Nếu được ly hôn, chị tiếp tục nuôi con gái út, còn con trai đầu thì giao anh nuôi, đôi bên không cần cấp dưỡng.

Theo chị H., tài sản chung tổng cộng khoảng 58 triệu đồng, trong đó gồm vịt xiêm, thỏ, gà, cây kiểng, chiếc bình gỗ và đồ trang sức vàng của con trai. Chị yêu cầu tòa chia mỗi bên một nửa.

Anh L. thì nói chị không tôn trọng và hay xúc phạm mình. Dù anh còn yêu chị nhưng nếu chị muốn ly hôn thì anh vẫn đồng ý. Về con cái, anh nhất trí như phương án của vợ. Về tài sản, anh L. yêu cầu tòa phải chia luôn cả nữ trang cưới vì cho rằng đây là tài sản chung của vợ chồng.

Theo anh, nữ trang cưới gồm một đôi bông tai một chỉ vàng 9999, một dây chuyền bốn chỉ vàng 9999, một lắc tay ba chỉ vàng 9999 và hai nhẫn cưới một chỉ vàng 18K. Hiện số vàng này chị H. đang giữ. Cạnh đó, anh đồng ý chia đôi vật nuôi và chiếc lộc bình gỗ nhưng cây kiểng thì anh không đồng ý vì đó là tài sản của gia đình anh chứ không phải của hai vợ chồng.

Sính lễ cưới là tài sản riêng của cô dâu?

Tại phiên xử mới đây, phía chị H. không đồng ý việc chồng đòi chia nữ trang cưới bởi chị cho rằng đây là tài sản riêng của cô dâu. Đồng thời, việc chồng nói cây kiểng là tài sản chung của nhà chồng, chị H. cũng không đồng tình.

Tại tòa, luật sư của chị H. nói: “Theo phong tục tập quán, một trong những thủ tục không thể thiếu trong việc cưới hỏi chính là việc nhà trai tặng sính lễ cho cô dâu. Tuy không bắt buộc nhưng nó gần như đã trở thành lệ trong bất cứ cuộc hôn nhân nào”.

Đi sâu vào phân tích, phía chị H. cho rằng trong ngày đám cưới, gia đình nhà trai đã mang lễ vật, trong đó có nữ trang sang nhà chị H. và tuyên bố trước mặt hai họ nói là tặng cho cô dâu. Điều này chứng tỏ khi gia đình anh L. trao nữ trang và đeo vào người chị H. là đã chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản này và nó có hiệu lực pháp luật ngay thời điểm chuyển giao. Theo Điều 168 BLDS, việc chuyển quyền sở hữu đối với động sản có hiệu lực kể từ thời điểm động sản được chuyển giao.

Về mặt ý chí, gia đình anh L. tặng số nữ trang cho chị H. tại thời điểm đó là trên tinh thần tự nguyện giữa bên cho và bên nhận mà không đòi hỏi bất kỳ điều kiện gì khi tặng cho sính lễ. Vì vậy, số nữ trang sính lễ trên được xem là tài sản riêng của chị H. chứ không phải là tài sản chung của vợ chồng. Theo khoản 1 Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình, tài sản riêng của vợ là thuộc sở hữu riêng của vợ.

Tòa: Của chung nên phải chia đôi

Tất nhiên, phía anh L. cương quyết giữ nguyên quan điểm cho rằng nữ trang cưới là tài sản chung của vợ chồng, khi ly hôn thì phải chia đôi.

Cuối cùng, TAND huyện Cần Đước xác định hai bên thừa nhận về số nữ trang cưới và đó là tài sản chung nên chị H. phải thối lại cho chồng 3,5 chỉ vàng 9999 và nửa chỉ vàng 18K. Đồng thời, tòa ghi nhận sự thỏa thuận của đôi bên, giao cho anh L. sở hữu 100 con vịt xiêm, 80 con thỏ, bốn con gà và chín lộc bình gỗ, ngược lại anh L. phải hoàn trả cho chị H. 7 triệu đồng.

Về cây kiểng, chị H. thừa nhận trước khi cưới bên chồng đã có một số cây. Nhiều hộ liền kề đều xác nhận nguồn gốc cây kiểng là của cha mẹ chồng quản lý, còn anh L. chỉ được giao phụ chăm sóc mà thôi. Cha mẹ chồng không tặng cây kiểng và anh L., chị H. sống chung trong gia đình chồng nên không thể xem là tài sản riêng của vợ chồng, vì vậy không chia.

Ngay sau khi tòa phán quyết, chị H. đã có đơn kháng cáo yêu cầu xem lại việc chia tài sản vì cho rằng không hợp lý, hợp tình.

Tùy vào cho riêng hay cho chung

Trước đây, Nghị quyết 01/NQ-HĐTP năm 1988 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình. Theo đó, đối với vụ án ly hôn mà vợ chồng có tranh chấp về tài sản là nữ trang ngày cưới được pháp luật quy định như sau:

Đồ trang sức mà người vợ hoặc người chồng được cha mẹ vợ hoặc chồng tặng, cho riêng trong ngày cưới là tài sản riêng. Nhưng nếu những thứ đó được cho chung cả hai người với tính chất là tạo dựng cho vợ chồng một số vốn thì coi là tài sản chung. Khi chia tài sản chung, những trang sức có giá trị không lớn so với tài sản chung thì chia cho người đang sử dụng.

Sau này, Nghị quyết 02/2000 ra đời thay thế Nghị quyết 01 đã không còn quy định vấn đề chia tài sản ly hôn là trang sức nữa.

Trên thực tế, những nữ trang như đôi bông cưới, dây chuyền, vòng vàng được tính là đồ dạm hỏi thì thường được coi là nữ trang cho riêng cô dâu nên vẫn có thể xem là tài sản riêng. Còn đối với vàng khâu, tuy là đeo cho cô dâu nhưng nếu người cho xác định vào thời điểm cho là cho hai vợ chồng thì nó vẫn là tài sản chung.

Một thẩm phán Tòa Dân sự TAND TP.HCM

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm