Trốn chạy - Kỳ 1: Quyết định đến với tự do

Trốn chạy - Kỳ 1: Quyết định đến với tự do ảnh 1

Carolyn Jessop, tác giả Escape

Carolyn
là người thuộc thế hệ thứ sáu của một gia đình theo giáo phái đa thê có tên gọi Fundamentalist Church of the Latter-Day Saints (FLDS) với 10.000 tín đồ sống trong một khu liên hợp dọc ranh giới giữa hai bang Utah và Arizona (Mỹ).
Năm 19 tuổi cô bị ép cưới Merril Jessop, người đàn ông xa lạ đã 50 tuổi và có ba vợ. Sau 16 năm sống trong nỗi đắng cay, ghê tởm của chế độ đa thê, vào một ngày tháng 4-2003 cô quyết định tìm đến tự do cùng với tám đứa con của mình.
 Nhờ sự giúp đỡ của nữ phóng viên Laura Palmer, Carolyn Jessop đã viết lại cuộc đời mình trong Escape (Trốn chạy).
Chúng tôi sẽ trích giới thiệu một số chương hay trong quyển sách (tựa bài và những tựa nhỏ trong bài do tòa soạn đặt.)

Trốn chạy - Kỳ 1: Quyết định đến với tự do ảnh 2

Trẻ em học ở trường tư trong cộng đồng do giáo phái FLDS quản thúc - Ảnh: wsj.net

Thế giới bên ngoài là quỷ dữ

Thuở bé, cuộc sống của chúng tôi không đến nỗi hà khắc như lúc Warren Jeffs lên tiếp nhận ngôi vị giáo chủ FLDS sau sự ra đi của người cha là chú Rulon Jeffs. Thuở ấy, trẻ con trong cộng đồng được cho đi học ở trường công. Nhưng điều này đã trở thành dĩ vãng kể từ khi Warren Jeffs lên nắm quyền. Hắn cho rằng thầy cô giáo ở trường công chỉ làm ố bẩn và hư hỏng đầu óc chúng tôi mà thôi.

Hắn lệnh cho tất cả trẻ con trong giáo phái FLDS đến học ở những trường tư trong cộng đồng. Tại đây, dưới sự quản thúc của giáo phái FLDS, trẻ con bị “tẩy não” và nhồi nhét vào đầu toàn những điều nhăng cuội. Trường học đã dạy bọn trẻ rằng khủng long chưa bao giờ xuất hiện trên hành tinh này và con người cũng chưa bao giờ đặt chân lên mặt trăng.

Tôi từng đi dạy ở trường công và yêu thích văn chương. Tôi đã thu thập hơn 300 quyển sách dành cho trẻ con. Nhưng không lâu sau khi Warren Jeffs lên nắm quyền, hắn ra lệnh tất cả những thứ vật chất của thế giới bên ngoài, trong đó có cả những quyển sách, đều bị cấm sử dụng trong cộng đồng.

Các con tôi rất kinh tởm thế giới bên ngoài. Người ta đã nhồi nhét vào đầu chúng rằng con người bên ngoài đều là quỷ dữ. Cái án treo đang nhằm vào chúng tôi khi gắn chặt phần đời của mình vào cộng đồng FLDS. Thay vì chơi trò trốn tìm, từ bé chúng tôi đã được thuyết giảng những lời khải huyền rằng Thượng đế sẽ đến tiêu diệt những kẻ xấu xa, rằng những kẻ bên ngoài cộng đồng đều phải chết, rằng chúng tôi là những con người được Thượng đế lựa chọn và tận hưởng cuộc sống ở thiên đàng.

Tôi còn nhớ cách đây đã lâu khi có dịp ra ngoài thị trấn, mọi người ở đó đã nhìn chằm chằm vào những bộ áo sẫm màu dài đến chấm gót của chúng tôi với vẻ khinh miệt và phỉ báng. Họ gọi chúng tôi là “dân đa thê” và đôi khi còn ném đá vào chúng tôi nữa. Nhưng chúng tôi chẳng màng đến thái độ cũng như việc làm của họ, bởi vì trong suy nghĩ của chúng tôi, bọn họ đều là hiện thân của quỷ dữ.

Lên kế hoạch trong sự tuyệt vọng

Harrison đã săp lên bốn nhưng không thể bước đi hay bập bẹ nói tiếng nào, thậm chí vẫn còn phải dùng tã. Thăng bé không thể ăn qua đường miệng nên bác sĩ đã đặt một ống dẫn chất dinh dưỡng vào thăng dạ dày. Tuy là đứa trẻ tật nguyền nhưng Harrison lại là cứu cánh của chúng tôi. Tôi biết Merril cho rằng tôi sẽ không thể chạy trốn được nếu có Harrison. Tôi có thể làm gì đây? Harrison cần thở oxy trong lúc ngủ. Tôi thấy lo khi phải tháo thiết bị truyền oxy, việc đó thật nguy hiểm nhưng tôi phải làm.

Linda cũng là một tín đồ của giáo phái FLDS, nhưng vợ chồng chị không tuân thủ theo chế độ đa thê. Chị biết được ý định trốn chạy của tôi từ những lần hai chị em thủ thỉ về những nỗi đau đớn âm thầm mà tôi đã phải chịu đựng. Cả hai chúng tôi đều cảm thấy giáo phái mà mình theo đuổi thật đáng kinh tởm và ngày càng khó sống dưới sự cai trị của “nhà tiên tri” Warren Jeffs. Trong những lần tán gẫu qua điện thoại, chúng tôi vẫn hay nói đùa với nhau rằng: “Đừng nên uống rượu pân” (ám chỉ cuộc tự sát tập thể của 900 tín đồ giáo phái Thánh đường nhân dân bằng cách uống rượu pân có độc theo lệnh của giáo chủ Jim Jones ở Guyana vào năm 1978).

Khi đến nhà người chị gái, tôi liền gọi ngay đến sở cảnh sát bang Arizona. Lúc đó không có ai đáp lại lời tôi, chỉ có những âm thanh xì xào của tiếng điện thoại cài đặt sẵn. Nhưng cảnh sát bang Utah thì trả lời. Tôi vui mừng khôn xiết và thỉnh cầu họ giúp đỡ chúng tôi, một người phụ nữ cùng với tám đứa con đáng thương, trốn chạy khỏi giáo phái FLDS. Cảnh sát bang Utah nói rằng họ không có quyền hạn vì chúng tôi đang ở bang Arizona, mà dù chúng tôi có đặt chân lên bang Utah thì họ cũng không thể can thiệp.

Đồng hồ sắp chuyển sang 11 giờ khuya. Tôi cố gọi cho nhóm người thường giúp phụ nữ chạy trốn khỏi chế độ đa thê. Nhưng ngay lúc đó, không ai có thể giúp được chúng tôi.

Tôi cảm thấy cánh cửa tự do dường như đóng sầm lại khi đã đến nửa đêm. Tôi và Linda cố gọi điện cho người em trai là Arthur hiện đang sống ở thành phố Salt Lake. Bốn năm trước, Arthur đã rời giáo phái để kết hôn cùng Thelma - người con gái mà Arthur đem lòng yêu thương. Thelma là con gái riêng của người vợ thứ ba của bố tôi. Khi đến sống cùng chúng tôi, bà mang theo tám người con. Thelma là một trong số đó.

Arthur và Thelma không được phép kết hôn dù cả hai không có quan hệ huyết thống gì cả. Nhà tiên tri lúc ấy, cha của Warren Jeffs, đã ấn định cho Thelma kết hôn với một người mà cô chẳng mảy may yêu thương. Thế nên Thelma và Arthur trốn chạy khỏi giáo phái FLDS, cùng nhau xây dựng tổ ấm ở thành phố Salt Lake.

“Arthur, chị rất muốn rời khỏi nơi này vào tối nay. Em có thể giúp chị được không?”.

“Carolyn ạ - Arthur đáp - Em luôn sẵn sàng giúp chị, nhưng nếu bây giờ em lên đường thì sớm nhất phải đến 5 giờ sáng mai em mới có mặt ở chỗ chị”.

“Em làm được mà!” - tôi cố không thể hiện nỗi tuyệt vọng của mình. Chúng tôi ở cách xa nhau những 300 dặm đường. Và nếu muốn đến đây em tôi phải lái xe suốt đêm.

“Được rồi! Em sẽ đến chỗ chị” - Arthur đáp.

Chúng tôi hẹn gặp nhau ở Canaan Corners, một cửa hàng bách hóa cách chỗ chúng tôi ba dặm về phía biên giới của bang Utah. Arthur còn nói cậu sẽ mang theo một chiếc xe moóc để kéo chiếc xe tải nhỏ của tôi đến Salt Lake. Arthur còn lôi cả cậu em Darrel của chúng tôi vào cuộc. Tôi cho Arthur biết xe của tôi sắp cạn xăng, nhưng tôi sẽ cố gắng để đến được nơi hẹn.

Điều tôi cần làm tiếp theo lúc ấy là nghĩ xem phải nói gì với bọn trẻ để chúng chịu ra khỏi nhà và leo lên xe. Chúng sẽ không bao giờ đi nếu biết tôi đang lôi chúng vào cuộc trốn chạy khỏi cộng đồng.

Merril nghi ngờ gọi điện về

Khi tôi rời nhà chị Linda thì cũng đã quá nửa đêm. Về đến nhà, tôi vào bếp lấy hai cái túi đen vẫn dùng để đựng rác, sau đó khẽ khàng bước đến phòng bọn trẻ gói ghém quần áo. Vì tôi thường thức đến tận khuya để làm việc nhà nên không ai nghi ngờ việc tôi đến từng phòng lôi bọn trẻ dậy.

“Chúng con không thuộc về mẹ! Chúng con thuộc về đấng tiên tri! Mẹ không có quyền đưa chúng con đi đâu cả!”.

Đã 4 giờ sáng. Tôi bắt đầu lay các con dậy. Tôi chẳng gặp khó khăn gì khi đến từng phòng đánh thức bọn trẻ. Tôi nói rằng Harrison trở bệnh và cần phải đến gặp bác sĩ ngay. Lý do này xem ra vô cùng hợp lý, bởi lẽ Harrison đi bác sĩ như cơm bữa.

Khi Betty đang mặc quần áo thì một trong những bà vợ của Merril bước vào phòng con bé. Bà ta lấy làm ngờ vực và bắt đầu hỏi han Betty tới tấp. Lúc này đồng hồ đã điểm 4 giờ 20 phút. Thế nào rồi bà ta cũng mách lại với chồng tôi sự thể bất thường này. Sau này, bố tôi đã nói lại với tôi rằng Merril đã gọi điện thoại cho ông lúc 4 giờ 25 phút và chất vấn: “Carolyn đang làm cái quái quỷ gì đó không biết. Cô ấy tự dưng dựng bọn trẻ dậy rồi mặc quần áo tinh tươm cho chúng”.

Merril lại gọi điện về nhà, cố liên lạc với tôi cho bằng được. Tôi nghe tên mình vọng lại, nhưng biết rằng nếu bắt máy thì có lẽ tôi sẽ không bao giờ rời khỏi nơi này được. Tôi chỉ để lại đôi lời từ biệt trước khi cất bước ra đi. Lúc đó đã gần 4 giờ 30 phút sáng. Tôi chỉ còn mấy phút để ra đi.

Tôi bế từng đứa lên xe và dặn chúng thắt chặt dây an toàn. Tôi cuống cuồng như thể không còn thời gian nữa. Chỉ còn mỗi mình Harrison. Tôi vội chạy vào, tháo bình oxy, ẵm thằng bé ra xe. Sau khi thắt dây an toàn cho Harrison, tôi khởi động xe, không quên đảo mắt một vòng xem bọn trẻ đã đủ cả chưa. Thiếu mất Betty!

Trong giây lát, tôi đã phải giằng xé nội tâm ghê gớm. Liệu tôi có nên bỏ lại một đứa và cứu bảy đứa không nhỉ? Không. Lương tâm của một người mẹ không cho phép tôi làm như thế. Đã đi thì phải cùng đi hết. Tôi liền chạy vào nhà và tìm thấy Betty đang rơm rớm nước mắt trong phòng của nó.

Betty suýt làm hỏng mọi chuyện

“Mẹ! Mẹ đang làm gì thế này? Tại sao mẹ không cho bố biết việc này?”.

Tôi ôm Betty vào lòng. Con bé liền đẩy tôi ra như thể muốn nói rằng hãy để cho nó được yên. Tôi liền lôi con bé: “Betty! Mẹ không thể để con lại một mình. Con phải đi cùng mẹ!”.

Con bé tiếp tục gào lên. Tôi đẩy nó vào xe, đóng sầm cửa lại và bắt đầu nổ máy. Lúc ấy, Merril đã gọi cho cảnh sát địa phương hòng chặn chúng tôi lại. Những tay cảnh sát này cũng là tín đồ của giáo phái FLDS và họ thừa lệnh của Merril đập tan mưu toan trốn chạy của tôi.

Đi được độ hai dặm đường, động cơ xe bắt đầu phát ra những tiếng kêu “cành cạch”. Tôi đoán xe sắp hết xăng. Bọn trẻ không hiểu chuyện gì đang xảy ra và tỏ vẻ sợ hãi. Từ xa, tôi đã có thể trông thấy thấp thoáng cửa hàng Canaan Corners. Tôi bỏ chiếc xe lại và chạy về phía trước, nơi Arthur và Darrel đang đợi tôi. Tôi vui mừng ôm hai em vào lòng. Tôi nói với cả hai rằng bọn trẻ vẫn chưa biết ý định trốn chạy của tôi.

Chuyến đi khá trơn tru trong suốt hai mươi phút đầu. Ngồi trong xe, tôi phân vân không biết chúng tôi sẽ nương náu ở đâu khi đặt chân đến thành phố Salt Lake. Tình thế bỗng thay đổi khi xe rẽ sang một lối khác trên xa lộ và hướng về Salt Lake thay vì đến St. George, nơi bác sĩ của Harrison làm việc. Betty bỗng lồng lộn lên.

“Mẹ đang bắt cóc chúng con! Mẹ, sao mẹ lại bắt cóc chúng con? Chú Warren sẽ đến và đưa chúng con về”.

“Betty, mẹ không bắt cóc con của mình”.

“Chúng con không thuộc về mẹ! Chúng con thuộc về đấng tiên tri! Mẹ không có quyền đưa chúng con đi đâu cả!”.

“Chúng ta sẽ biết được bộ mặt thật của họ ở tòa” - tôi cố phân giải để con hiểu.

“Ở tòa, chính các bà mẹ mới thật sự là người có mọi quyền đối với con cái của mình”.

Andrew, cậu con trai bảy tuổi, quay sang nhìn chúng tôi và hỏi: “Sao mẹ bảo với chúng con là sẽ đến chỗ bác sĩ cơ mà?”.

“Bà ấy không đến chỗ bác sĩ đâu. Bà ấy mang chúng ta đến địa ngục đấy!” - Betty giận dữ.

“Sao mẹ lại làm thế? - Andrew bé bỏng hỏi tôi - Sao mẹ lại mang con của mình vào chốn địa ngục cơ chứ?”.

Cuối cùng Arthur phải quát Betty để con bé im miệng lại. “Không phải như con nghĩ đâu, Betty ạ! Hãy giữ im lặng và thật bình tĩnh!” - Arthur tiếp tục tuôn một tràng những lý lẽ thiệt hơn. Betty cứ la hét, cầu cho đấng tiên tri tống tôi xuống địa ngục. Arthur vẫn không bỏ ý định giúp con bé hiểu ra sự thể. Chừng như đã mệt mỏi, Betty dịu lại.

Năm tiếng sau, chúng tôi đã đặt chân đến Salt Lake và bắt đầu lẩn trốn. Lần đầu tiên trong suốt 35 năm qua, tôi đã được tự do. Lúc này gia sản của tôi là tám đứa con và 20 đôla trong túi. Trong khi đó, Merril đang ráo riết săn lùng tôi như săn một con thú sổng chuồng.

Theo NGUYỄN HỮU NAM (TTCT)

______________

Kỳ 2: Tôi phải cưới ông già 50 tuổi

Chia sẻ lên LinkHay.com Email In [+]Cỡ chữ[-]

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm