‘Hôn nhân’ quỹ đầu tư với doanh nghiệp liên tục tan vỡ

Thời gian gần đây liên tục diễn ra chuyện “cơm không lành, canh không ngọt” giữa quỹ đầu tư và doanh nghiệp (DN) Việt. Thay vì cái bắt tay đem lại nhiều niềm vui và đầy hứa hẹn như thuở ban đầu thì khi đi vào hợp tác cụ thể là xung đột, khởi kiện, kêu cứu...

Đứt gánh giữa chừng

Mới đây Quỹ đầu tư FPT (FPT Capital) đã khởi kiện Công ty Cổ phần Hoàng Anh Gia Lai và ông Đoàn Nguyên Đức (bầu Đức) liên quan đến việc tranh chấp hợp đồng góp vốn ra Tòa án TP Pleiku, tỉnh Gia Lai.

Ông Võ Trường Sơn, Tổng Giám đốc Công ty Hoàng Anh Gia Lai, xác nhận thông tin trên và giải thích: Tháng 12-2011, FPT Capital và Công ty Cổ phần Cao su Hoàng Anh Gia Lai (nay chuyển đổi thành Công ty Cổ phần Nông nghiệp Quốc tế Hoàng Anh Gia Lai - HNG) đã ký hợp đồng góp vốn cổ phần có giá trị 76,5 tỉ đồng.

Đến tháng 6-2015, thông qua việc phát hành thêm cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu với tỉ lệ 49,5%, FPT Capital đã mua thêm 1,5 triệu cổ phiếu HNG ở mức giá 51.000 đồng/cổ phiếu để tăng sở hữu lên 2.242.500 cổ phiếu.

Tuy nhiên, đến tháng 9-2015, FPT Capital gửi thông báo đề nghị HNG và ông Đoàn Nguyên Đức, Chủ tịch Hoàng Anh Gia Lai, mua lại toàn bộ số cổ phiếu HNG mà quỹ này đang nắm giữ với tổng trị giá gần 113 tỉ đồng.

Phía HNG cho rằng giá trị cổ phiếu HNG mà FPT Capital yêu cầu mua lại theo cách tính toán của FPT Capital là chưa hợp lý, trong khi hợp đồng đang có một số vấn đề pháp lý chưa phù hợp với quy định của pháp luật nên công ty không chấp nhận.

“Do hai bên chưa tìm được tiếng nói chung nên FPT Capital đã khởi kiện vụ việc ra tòa án. Hoàng Anh Gia Lai đã cử luật sư đại diện cho công ty và ông Đoàn Nguyên Đức tham gia tố tụng” - ông Võ Trường Sơn cho biết.

Trước đó không lâu, Công ty Ba Huân đã có đơn gửi Thủ tướng nhờ can thiệp để hủy thỏa thuận hợp tác đã ký với Quỹ đầu tư VinaCapital. DN của “nữ hoàng hột vịt” cho rằng việc hợp tác với VinaCapital nhằm mục đích đưa thương hiệu Ba Huân vươn tầm quốc tế. Tuy nhiên, thay vì mục tiêu hợp tác và phát triển, VinaCapital lại muốn chiếm quyền quản lý và điều hành toàn bộ công ty, chiếm đoạt thương hiệu Ba Huân. Mặt khác, VinaCapital đã tự động đưa tỉ suất hoàn vốn (IRR) quá cao, lên đến 22%/năm, gấp gần ba lần lãi vay vốn ngân hàng.

Ngay sau đó VinaCapital gửi thông cáo cho biết đã quyết định dừng việc tham gia đầu tư 32,5 triệu USD vào Ba Huân do “một số hiểu lầm giữa đôi bên”.

Mới đây Quỹ đầu tư VinaCapital và Công ty Ba Huân đã chia tay nhau chỉ sau một thời gian hợp tác ngắn ngủi. Ảnh: TU

Vì sao tan vỡ?

Nhìn lại hàng loạt vụ “hôn nhân” tan vỡ giữa các quỹ đầu tư và DN Việt Nam như BV Hoàn Mỹ-VinaCapital, Vinamit-Indochina Capital, Ba Huân-VinaCapital… đều có một điểm chung là sự xung đột đến từ nhận thức và tập quán khác nhau của hai bên đối tác.

Tại cuộc họp báo mới đây, ông Andy Ho, Giám đốc điều hành Tập đoàn VinaCapital, khẳng định: Việc đơn vị này yêu cầu tỉ suất hoàn vốn 22% trong thương vụ hợp tác với Ba Huân là thông thường trong mọi cuộc đầu tư của VinaCapital chứ không mang tính lừa dối hay ép ai cả. Nhưng Ba Huân lại cho rằng mức 22% này là không hợp lý và thậm chí kêu cứu đến Thủ tướng về việc quỹ đầu tư muốn thôn tính công ty.

BS Nguyễn Hữu Tùng, nhà sáng lập BV Hoàn Mỹ, cũng cho rằng việc đổ vỡ mối quan hệ hợp tác với VinaCapital vì nghĩ rằng quỹ đầu tư này cùng đầu tư vào theo kiểu lời ăn lỗ chịu nên dễ dàng chấp nhận nhiều điều kiện từ VinaCapital. khi đi vào thực tế thì chịu quá nhiều ràng buộc nên không thể đáp ứng được. Cuối cùng hai bên đành chia tay.

Trong góc nhìn của mình, TS Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế, phân tích có khá nhiều lý do để một thương vụ hợp tác giữa quỹ đầu tư và DN Việt gãy gánh nửa chừng. Nếu hợp tác với quỹ đầu tư ngoại thì cản trở đầu tiên với DN Việt là ngôn ngữ, mặc dù ngoại ngữ chính là tiếng Anh.

Cụ thể, DN Việt thường không thuê hoặc thuê người phiên dịch không có chuyên môn trong lĩnh vực để truyền tải đúng cho chủ DN. Hệ quả là hiểu sai vấn đề và ý đối tác, cũng như cung cấp và trả lời thông tin thiếu chính xác cho đối tác.

Quỹ đầu tư nước ngoài thường khá minh bạch và cởi mở thông tin, trong khi DN Việt mang tính cách Á Đông thường khá kín đáo trong cách trình bày. Các dữ liệu mà quỹ đầu tư muốn xem, khảo cứu thì công ty Việt có khi không cung cấp đầy đủ, xem xét tường tận.

Ngoài ra, DN Việt không có thói quen áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế khiến các quỹ khó nắm bắt tính chính xác vấn đề sức khỏe công ty dẫn đến dễ gây trở ngại đầu tư. Hơn nữa, khi làm việc với quỹ đầu tư mà không hiểu bản chất, ưu nhược điểm của quỹ thì sẽ gặp những rắc rối hoặc phải chịu cảm giác bị lừa.

“Như vậy, mấu chốt để hai bên hợp tác bền vững, tránh các xung đột như vừa qua chỉ có cách tạo ra niềm tin bằng việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế trong điều hành để minh bạch. Vì nếu không có niềm tin thì việc hợp tác không thể suôn sẻ và tan vỡ” - ông Hiếu nói.

Vẫn chưa có thói quen thuê luật sư

Từ kinh nghiệm thực tế của mình, ông Nguyễn Duy Hưng, Chủ tịch HĐQT Công ty Chứng khoán SSI, cho hay các quỹ đầu tư, nhất là quỹ đầu tư ngoại luôn có luật sư tham gia ngay từ đầu để ràng buộc các yêu cầu với DN và đưa cam kết của chủ DN vào hợp đồng. Ngược lại, rất nhiều chủ DN Việt lại không có thói quen thuê luật sư chuyên ngành thực hiện soạn thảo, rà soát hợp đồng; không sử dụng chuyên gia, công ty tư vấn về hợp đồng trước khi ký kết hợp tác.

“DN trong nước cần hiểu tập quán của mỗi bên, cần lưu ý những chi tiết trong hợp đồng thì sẽ giảm được thất vọng và mâu thuẫn trong quá trình triển khai” - ông Hưng khuyến nghị.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm