Ở đời này, đâu dễ sống cho ‘ra’ thi nhân

Thi nhân đời họ khốn đốn thế.

Khổng Vĩnh Nguyên đã siêu thoát rồi.

Khổng Vĩnh Nguyên thường bị thế nhân, kể cả những người làm thơ, coi rẻ. Đơn giản vì anh ta quá nghèo, thường không tiền trong túi, ăn mặc tuềnh toàng, lếch thếch, lại lang thang. Mà lang thang, chẳng để ý đến xung quanh và sống mơ tưởng là trạng thái thường được đám đông ta bà xem như… khùng điên.

Tôi không nghĩ về Khổng Vĩnh Nguyên như đám đông thường nghĩ. Nên tôi thường ngắm nhìn anh ta, bởi anh ta là một thực thể của vũ trụ, mà mỗi con người như Phật nói là một tiểu vũ trụ, đều màu nhiệm, chung thân phận bọt bèo trong cõi vô thường xung quanh, không ai là chủ nhân của cuộc đời cả. Thì có sao đâu, riêng gì thế nhân, anh ta từ lâu đã làm thơ rằng, mà lại làm để gửi cho vợ mình: Giờ em ghét kẻ lang thang/ Nên anh ngồi lặng bên đàng xin ăn.

Con người anh ta là thế, mọi thứ phù hoa mà đám đông mê say đều trở thành vô nghĩa. Anh ta cho rằng nếu con người có sao sống vậy, không đòi hỏi, so bì, hơn thua thì cuộc đời này là Thơ và không bao giờ có xung đột, chiến tranh. Đám đông ta bà thường khoe khoang hay tôn vinh sự khôn lanh, mưu mẹo và cho đó là tỉnh táo, nhưng họ không biết mầm mống của chiến tranh và cái ác là từ lòng tham mà ra. Đám đông với đặc tính lòng tham không dừng lại đã luôn kéo thế gian đi xuống, làm cuộc đời mất Thơ.

Phế liệu cũng thành… thơ

Vừa đặt chân xuống Quy Nhơn, tôi nhảy lên chiếc xe buýt cọc cạch chạy bốn chục cây số men theo những núi cát rẽ ra hai bên cao ngất trong cái không gian sa mạc ven duyên hải để tìm về nơi anh ta sống. Xứ sở gì mà ngay mọi cái tên từ xóm thôn, lên đến xã, huyện đều gắn với chữ Cát, còn gió thì cứ thổi vút vút nghe mà hoang liêu, nỉ non quá. Khổng Vĩnh Nguyên sững sờ nhìn tôi giữa cánh đồng: Đến đây thiệt hả? Rồi anh ta quay đầu bước đằng trước, tôi theo sau. Vừa đi anh ta vừa bảo, kia là núi Bà, còn đây là ruộng đồng. Quê mình thế đó.

Nhưng với anh ta, ngọn núi kia thì còn được nhìn, được trèo lên, nhưng ruộng không được bước xuống nữa.

Anh ta không thể bước xuống ruộng, đơn giản vì anh ta không còn một miếng đất cắm dùi. Ngày trước anh ta cày ruộng và làm thơ. Sau anh ta đem mấy sào ruộng đó cho người ta cấy rẽ, còn mình vào tít Sông Bé làm công nhân cạo mủ cao su và làm thơ. Rồi quay về cày ruộng lại và làm thơ. Khi đứa con duy nhất đậu đại học, anh ta mang hai sào rưỡi ruộng thế chấp ngân hàng để lấy tiền cho con theo học. Cứ thế, đám ruộng xẻo ra bán dần, bán dần để đổ tiền vào giáo dục. Đến lúc nợ lãi ngân hàng phình ra to quá, người ta dọa lấy ruộng và siết nhà, hết đường anh ta bán luôn mảnh ruộng bao quanh căn nhà của mình để trả nợ ngân hàng.

Một ngày, nhìn lại, anh ta thấy chỉ còn cái doi đất có căn nhà là “của mình”. Căn nhà lạc loài giữa ruộng. Cứ mở mắt ra anh ta thấy ruộng quen đã thành ruộng lạ. Phía trong những mảng cây um tùm đó là căn nhà nhỏ bé của anh ta, cái căn nhà đã qua mấy đời người. Nhà có cổng, nhưng gia chủ sống lơ mơ, bận làm thơ, thế là cây dại bò lên, chế ngự, cuối cùng cổng cũng thành rào luôn, không còn mở được. Tôi chui qua cái cổng để vào nhà anh ta. Cũng chưa bao giờ có ai mời tôi vào nhà kiểu đó.

Khi gặp bạn văn bất kỳ, ở đâu, Khổng Vĩnh Nguyên hồn nhiên nằm trò chuyện, mặc cho họ ngồi hay đứng, quỳ.

* * *

Tôi đi quanh làng, nhà nào cũng giản dị như nhau và đều có cây rơm trước nhà. Rơm là xác của cây lúa đã phơi khô sau khi tuốt lấy hạt và cây rơm là chất xác đó thành trụ để rút dần làm chất đốt và làm ổ cho vật nuôi. Dĩ nhiên nhà anh ta không thể có được cây rơm và là căn nghèo nhất rồi. Sống trong tận khổ thế này mà vẫn sinh nở ra thơ nổi sao? - tôi tự nghĩ.

Anh ta ra trước chỗ bụi tre còi, nơi có người con gái da nâu đang bán rổ cá biển loại hàng thải - vì cá ngon ngư dân đã dành bán cho thương lái đưa đi thành phố Quy Nhơn - mua một túm. Anh ta trải chiếc chiếu rách trước sân nhà, bày đĩa cá vừa xào không gia vị và chai rượu đế ra đãi khách. Tôi vừa cụng ly vừa hỏi: Khổ đến thế này mà vẫn ra thơ là sao? Anh ta không nhìn tôi mà nhìn ra đồng ruộng quê hương: Có còn thi sĩ ở quê không/ Hay là tiến hóa bay ra phố/ Bỏ lại quê xanh các cụ già. Rồi anh ta bảo quê mình mọi thứ đơn giản, như có như không. Cha đi biển chết oan cùng mộ gió/ Mẹ còng lưng rải giống khắp ruộng phèn/ Khổ quá nhiều nên không còn biết khổ/ Anh ở đợ cày thơ kiếm sống để yêu em.

Cách không xa làng anh ta là cửa Thử đã bồi lấp, nơi buổi xa xưa lịch sử điệu nàng Huyền Trân về phía biển để đưa lên giàn hỏa thiêu, táng cùng lúc theo vua Chăm Chế Mân khi ngài qua đời, để rồi diễn ra cuộc giải cứu ngang trái thị phi của Trần Khắc Chung. Nhưng chuyện lịch sử kia với Khổng Vĩnh Nguyên không quan trọng bằng đời thi ca và cơm áo. Cũng như hòn Vọng Phu nổi tiếng trên dãy núi Bà cũng không quan trọng bằng việc anh ta lên dãy núi đó để làm tiều phu, chặt cây bó củi bán, rồi rà bom gỡ mìn để kiếm phế liệu mưu sinh và… làm thơ. Đó là những năm sau 1975, anh ta Ngày đi kiếm củi đèo truông/ Sáng đem đổi gạo mà thương mẹ già.

Sau đó, thấy bom đạn còn vương vãi khắp nơi, vậy là anh ta lên núi để rà bom mang về thành phố bán phế liệu. Không biết anh ta đã phân thân thế nào giữa việc rà mìn và làm thơ, nhưng khi xuống núi anh ta thường mang cả hai thứ về. Anh ta lang thang lăn lóc trên dãy núi ven biển chạy dài lê thê từ địa bàn Phù Cát ra tận huyện An Lão ngoài kia. Rà được bom, anh ta mang về tháo ngòi nổ để lấy vỏ sắt, vỏ đồng của trái bom đem bán. Không biết có phải nhờ nàng thơ cứu không mà anh ta rất nhiều lần thoát chết, dù vài đồng nghiệp phế liệu của anh ta người cụt chân, người mất tay, thậm chí có đứa tan xác trên núi. Anh ta thương cha mà đi rà phế liệu để cha bớt còng lưng trên luống cày. Cha chết, anh ta thương người mẹ mù mà quyết định “lên đời” từ chàng nông dân, tiều phu, kẻ rà phế liệu để thành “Công nhân”.

Làm thi nhân đúng là tự làm khổ mình và nhất là khó chung chạ được với thế nhân phàm phu. Như bận anh ta đi làm công nhân ở đồn điền cao su quốc doanh, thời bao cấp, khi một vị lãnh đạo bảo anh ta và những công nhân chở một xe đất đỏ bazan từ Sông Bé về nhà y ở giữa Sài Gòn để trồng lấy một trụ tiêu làm cây kiểng chơi. Thấy vị này ăn chơi xa xỉ giữa lúc dân tình cả nước đang kham khổ, anh ta lên tiếng phản ứng và không thi hành. Ít ngày sau, anh ta buộc phải rời đồn điền cao su, về lại Phù Cát cày ruộng.

Có thời kỳ ở xã, người ta thấy anh ta thông minh, hiểu biết, có trình độ học vấn nên mời làm cán bộ phụ trách văn hóa xã hội. Trong một lần họp ủy ban, ngài chủ tịch xã trẻ tuổi phán một chuyện trật lất về mặt học thuật nhưng ép bộ máy bên dưới cứ phải thực hiện điều đó. Anh ta kiên trì cố vấn, khuyên cản, ngài chủ tịch vẫn không nghe. Thế là anh ta bước lên bạt tai ngài chủ tịch: “Mày ngu quá! Không biết nghe điều hay, lời đúng để được dân yêu, mọi người tôn trọng”. Vị chủ tịch là cháu ruột của anh ta và là người giới thiệu anh ta cho xã.

Khổng Vĩnh Nguyên làm công chức được đúng ba tuần!

Anh ta không chịu đưa những tập thơ của mình ra cho người khác xem. Tôi phải lục lôi nó trong xó nhà anh ta mang ra sân. Nhưng anh ta gom ngay lại để mang bỏ lại vào xó.

Gãy tình yêu, gục vào thơ

Mùa xuân năm một chín tám mốt anh ta lấy vợ. Mùa đông một chín tám hai chia tay vợ, chính xác là nàng bỏ đi. Anh ta ngóng lên hướng đèo An Khê về hướng Gia Lai mờ xa kia, nơi nàng đi lấy chồng mới: Thương em nhón gót nhìn qua núi.

Từ đó anh ta tự tay nuôi đứa bé mới bảy tháng tuổi. Khốn khổ, thằng làm thơ, vụng về, tận tâm gia sự làm sao có thể chăm con khôn khéo, ngon lành được. Vậy là người mẹ mù lòa phải lọ mọ chăm đứa cháu. Anh ta chỉ lo phần kiếm tiền. Bom đạn thừa thãi sau hậu chiến trên núi kia rồi cũng hết. Nắng nung rẫy cát khoai sùng/ Con ăn lót dạ một vùng quê hương. Anh ta đành lòng để đứa con cho người mẹ mù xoay sở, tha phương làm công nhân cao su để kiếm tiền gửi về. Phu đồn điền cao su đời mới mà cứ mộng mơ phơi phới giữa áo cơm, Gió chiều viễn xứ đùa trên tóc/ Sương xuống đời trai bỏ ruộng vườn.

Từ những rừng cao su xanh ngát ở Lộc Ninh, anh ta dõi về hình bóng người mẹ mù nơi cát cháy núi khô bên biển: Mẹ già nhìn gió trên rừng/ Gió lang thang đắng, gió lừng khừng bay. Là mẹ đang nghe gió đó chứ nào thấy gió.

* * *

Mất việc ở đồn điền cao su, “nền” kinh tế gia đình anh ta rơi vào đại khủng hoảng. Anh ta chỉ còn cách gửi thơ đăng báo, tập trung làm thơ. Từ chỗ làm thơ không để ý đến công bố hay đăng báo nay đành phải thế. Nhưng dựa vào cái mác nhà thơ để làm việc khác thì còn được, chứ trước nay có mấy ai sống bằng thơ đâu. Anh ta biến mình thành kẻ thử nghiệm. Nhuận bút cho thơ cũng bay về nhưng chẳng bõ bèn gì. Oái oăm, thơ càng hay thì thi nhân càng sống lây lất, bần hàn, đói khổ. Tôi thương quá những cánh đồng cháy xém/ Bãi cỏ vàng nuôi ốm những thân trâu.

Thử nghiệm sống bằng thơ thật oan nghiệt, không thành. Anh ta trở lại miền Cát Hải. Thơ lại bay lên từ những luống cày. Trước kia, Anh về làng cũ học cày/ Thấy em cơ cẩn hơn ngày yêu nhau. Nay, Anh nằm ngủ bên bờ lau xào xạc/ Nghe mùa màng xao xác ven sông/ Mà gió chướng khô cánh đồng định mệnh/ Tay bút tay cày hổn hển mồ hôi. Ân nghĩa với cả cửa hàng tạp hóa trong làng, Hết tiền ăn chịu em ơi/ Chứ anh đâu phải bụi đời bất lương.

Anh ta không một lời than trách người phụ nữ ra đi, để lại đứa con đỏ hỏn, đẩy anh ta vào khổ lụy đời. Thậm chí còn bảo là do mình không đáp ứng được những gì cần thiết với một cô gái, thì tính trượng phu đó chỉ có thể Thi nhân đúng nghĩa mới hành sự nổi. Anh ta bám vào thơ, trong cuộc tròng trành của chiếc bè sống tan vỡ giữa cõi người, hay anh ta đã là một sứ giả của thi ca nơi đồng nội, Ngôn sứ, mà ta không biết. Một kẻ chân thành với quê quán, nói tiếng nói của quê mùa, ở thời đại mình.

Từ cuộc tình đầu tiên đó, anh ta chốt lại luôn đó là cuộc tình cuối cùng của đời trai. Anh ta sống siêu thoát, phiêu bạt, như một thiền sư. Chỉ có điều, thiền sư Khổng Vĩnh Nguyên bị nghiệp báo nên quá yêu chốn nhân quần, cõi dục phàm, nên phải để ý đến cái khổ của thế nhân và làm thơ về nó. Nghe đâu nhiều nàng nông dân trong vùng sau đó yêu thích tâm hồn anh ta, nhưng anh ta không muốn thêm nàng nào bất hạnh nữa vì yêu phải đứa làm thơ. Cũng chẳng ai như anh ta, khi đứa con trai duy nhất của mình yêu được con gái của một người quét rác ở một chợ huyện, về xin cưới thì anh ta nhảy dựng lên, vỗ ngay vào đùi mình: “Thằng này được!” Anh ta tự hào về đứa con của mình và bảo bao nhiêu thơ ca của mình không bằng một hành động của nó.

Bên trên là ảnh cố thi sĩ Bùi Giáng, còn bên dưới là người “ngu” Khổng Vĩnh Nguyên.

Thi nạn

Cuộc đời không tiền không bạc cũng cười vang như Khổng Vĩnh Nguyên làm cánh thơ ca giang hồ, khác thơ phú hội hè, ngưỡng mộ. Khi không có xu cắc trong túi anh ta vẫn có thể đi tới nơi mình muốn đi. Ở đó, anh ta kết thân với bất cứ thành phần cần lao liêm chính nào của xã hội và người ta luôn mở cửa đón. Thế mới lạ. Tôi đã từng thấy anh ta nằm lăn ra sườn đồi, vệ cỏ, bờ hồ ở Đà Lạt để làm thơ. Không giấy trong người, anh ta bứt lá dã quì để viết. Tôi cũng đã thấy anh ta đọc thơ sang sảng trên những xóm làng ở Đức Trọng, Di Linh, Bảo Lộc, Cát Tiên, Madagouil. Khi anh ta đọc thơ thì cứ như ma nhập, đánh bạt mọi âm thanh ồn ào xung quanh. Người có nội lực và tâm hồn nghệ sĩ nghe anh ta đọc thơ thấy thăng hoa cùng; người yếu bóng vía thì hớt hải, thấy anh ta bị thơ nhập như gã khùng. Trịch thượng và thường ảo tưởng về vị trí trung tâm như cánh thơ phú ở thủ đô mà cũng từng chết đứng khi nghe anh ta đọc thơ làm về Hà Nội, đọc giữa Hà Nội: Tôi yêu sông Nhị núi Nùng/ Yêu người điên với anh hùng ngang nhau.

Anh ta làm thơ từ năm mười bốn tuổi. Nhưng mười tuổi đã biết đi biển và mười ba tuổi đã làm đàn ông ngư phủ, ra đại dương đánh cá cùng họ hàng, cùng lúc tự đào tạo mình thành thi nhân mộng trên những con sóng bạc đầu. Ngay từ buổi đó, anh ta đã cho rằng biển chỉ là một cái ao lớn. Giữa biển khơi, lại ước đời mình chuyên về nghề cày ruộng, mai này. Đánh cá và đi học. Vì đi học, có cái chữ, trí thức của làng chài và ruộng đồng chua chát, thì buộc phải thao thức, làm thơ.

Mười sáu tuổi, giữa buổi quê hương đang chiến tranh, Khổng Vĩnh Nguyên đã xuất bản tập thơ có tên Thắp lại niềm tin. Lúc đấy, đương là thiếu niên, không biết đến cây súng mà đã nhìn thấy cõi nhân quần yêu dấu: Ta đang sống giữa trùng vây xương máu/ Người gục ngã nối liền người gục ngã/ Nghĩa địa dậy bao nhiêu mồ mả/ Ai quấn khăn tang khóc suốt đêm sầu. Tâm hồn đa mang đến thế thì khổ là phải rồi. Ai bảo hồi mới ở tuổi đó mà đã suy tư, Anh làm thơ len trong màu nhạt nắng/ Như mưa sa trên mảnh đất khô cằn/ Như suối đàn vang tiếng yêu em.

* * *

Làm thơ như con người buộc phải thở như anh ta thì liệt kê tác phẩm ra làm chi cho mệt, lại rối đầu tha nhân. Chỉ biết rằng sau thời đại đã xa tít của Bàn Thành Tứ Hữu với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Chế Lan Viên, Quách Tấn thì trời văn Bình Định lấp lánh một Khổng Vĩnh Nguyên trong phẩm chất văn nhân cho một thời khác. Cả cuộc đời Khổng Vĩnh Nguyên đã là một thi phẩm, mà không phải hết thẩy “tứ hữu” kia đều thành thế.

Khổng Vĩnh Nguyên trong một dạo tạt qua cao nguyên Di Linh.

Thi nhân đời họ khốn đốn thế

Khổng Vĩnh Nguyên đã siêu thoát rồi.

Ta không phải thi nhân, là người phàm thì chỉ cần biết sòng phẳng với cái đẹp. Như rằng, để tôn kính thơ, chỉ cần nhận ra người làm thơ có nhiều cấp loại. Rằng có người yêu thơ, có người thích thơ, có người chơi thơ, có người sinh hoạt với thơ, có người giải trí với thơ, có người dạy thơ cho học sinh kiếm sống, có người mượn thơ để tán gái, có người lợi dụng thơ để vinh thân lợi lạc, lòe mắt thế nhân hoặc để bớt mặc cảm với nhân quần, nhưng rằng người thích thơ, thợ thơ, khác với sáng tạo ra thơ, và đặc biệt Nhà thơ cũng khác với Thi sĩ, Thi nhân. Cần cù, siêng viết cũng thành nhà thơ, nhưng Thi nhân là sống, sống như thơ, đức hạnh tuyệt đối, trong sáng và chân thành vô tận. Anh ta chịu nạn trước thi ca, vượt qua phàm tục, gánh trần gian trên vai. Thi nhân là đỉnh cao của thi ca. Thi nhân là sự viên thành. Tôi cũng không biết có phải sau huyền thoại Thi sĩ Bùi Giáng thì chính anh ta là trường hợp thứ hai chịu làm người “ngu” giữa chốn dục phàm này không?

* * *

Song tôi cứ muốn khuyên mọi người tôi quen biết trên đường, đừng bao giờ trở thành Thi nhân, bởi nó quá xót xa. Những ai tỉnh táo máu lạnh và quen nhìn hệ giá trị kiểu đám đông thô phàm có thể bảo Thi nhân là ngốc dại thì cũng đúng, và chẳng sao. Nhưng khổ nỗi, đời mà không có Thi nhân, con người soi vào đâu để thấy sự tinh tế, cái đẹp, thấy hành trình làm người là cuộc gian truân, cơn vật vã, nghĩa lý và nhận ra thân phận giống loài. Giống người vì thơ như anh ta lội dòng ngược lại với đám đông ta bà, để kiên trì với cái đẹp, bản năng ngây thơ gốc của loài người.

Đừng bỏ lỡ

Đọc thêm

Hỉ, nộ, ái, ố chốn pháp đình

Hỉ, nộ, ái, ố chốn pháp đình

(PL)- Dân gian có câu “vô phúc đáo tụng đình”. Không ai sung sướng, vui vẻ gì khi phải đặt chân đến tòa án. Nhưng vì công việc, ngày qua ngày tôi phải dự hết phiên tòa này tới phiên xử khác.
Pháp đình…kỳ cục chuyện

Pháp đình…kỳ cục chuyện

(PL)- Một năm trôi qua, chốn pháp đình Việt Nam xảy ra lắm chuyện vui, buồn. Những thành tích, thành tựu, thành công… đã được các ngành đúc kết, rút kinh nghiệm.
Mùa thu trên dòng Volga

Mùa thu trên dòng Volga

(PL)- Tôi và chắc nhiều người thế hệ mình mặc định yêu nước Nga từ thời bé. Văn học, phim ảnh cứ vun đắp và nuôi dưỡng tình cảm ấy một cách tự nhiên, thấm dần. Được đến nước Nga là cả niềm mơ ước.
Vương quốc bí ẩn trên dãy Hymalaya

Vương quốc bí ẩn trên dãy Hymalaya

(PL)- Nhờ vị trí hiểm trở nên hàng ngàn năm nay, vương quốc Mustang gần như cách biệt với thế giới. Họ sống yên bình trong tĩnh lặng.