Kiện đòi đất mà không biết đất nằm đâu

Theo đơn khởi kiện của ông Thanh, trước đây ông được nhà nước cấp 5.000 m2 đất lúa theo diện 815 (đất khoán lại từ đất tập đoàn) thuộc thửa 98, tờ bản đồ số 4 (xã Bảo Thạnh, Ba Tri) từ thửa đất của bà Bạn. Năm 2004, ông được cấp giấy đỏ với diện tích đo đạc thực tế là 4.815 m2, có số thửa mới là 144.

Từ khi được cấp đất, ông cho bà Bạn thuê lại đất sử dụng với thỏa thuận tiền thuê vụ mùa 2003 là 12 giạ lúa/1.000 m2, vụ 2004 là 800.000 đồng/1.000 m2. Tuy nhiên, trong hai năm ấy, bà Bạn chỉ trả cho ông được tổng cộng 10 giạ lúa rồi ngưng bặt. Sau đó ông yêu cầu bà Bạn trả lại đất thì bà chỉ trả lại cho ông 3.000 m2. Vì vậy ông khởi kiện ra TAND huyện Ba Tri yêu cầu bà Bạn trả tiếp cho ông 1.815 m2 đất còn lại cùng 50 giạ lúa và 4 triệu đồng tiền thuê ruộng mà bà còn thiếu ông.

Xử sơ thẩm hồi tháng 6-2007, TAND huyện Ba Tri đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Thanh. Tháng 11-2014, chánh án TAND tỉnh Bến Tre đã ra quyết định kháng nghị tái thẩm bản án trên vì xét thấy có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung bản án nhưng tòa sơ thẩm và các đương sự không biết trong suốt quá trình giải quyết.

Tại phiên họp tái thẩm mới đây, Ủy ban Thẩm phán TAND tỉnh Bến Tre nhận định: Việc tòa sơ thẩm buộc bà Bạn phải trả thêm cho ông Thanh 1.815 m2 đất còn lại là có cơ sở. Tuy nhiên, qua thẩm tra, xác minh thực tế cho thấy phần đất 3.000 m2 mà bà Bạn đã trả cho ông Thanh trước đó không nằm trong thửa 144 mà ông đã được cấp quyền sử dụng. Tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ cũng như trong biên bản ghi lời khai ngày 13-10-2014, ông Thanh không xác định được vị trí thửa đất 144 mà ông đứng tên nằm ở chỗ nào. Phần đất 1.815 m2 ông khởi kiện đòi bà Bạn trả lại nằm ở đâu ông cũng không xác định được. Đây là tình tiết quan trọng để giải quyết toàn diện vụ án nhưng trong quá trình tòa sơ thẩm giải quyết, các đương sự không biết, không đề cập, làm bản án đã tuyên không thể thi hành được.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm