Theo hồ sơ, tháng 4-2008, trong lúc đánh cầu lông ở công viên, ông B. (sinh năm 1935) đã quen với cô Y. (thua ông 55 tuổi). Sau khi thân thiết, ông B. nhiều lần cho tiền, hứa tài trợ cho cô đi du học. Đổi lại, ông yêu cầu cô phải đến nhà ông để giải quyết vấn đề yếu sinh ngữ.
Cho tiền chuộc xe
Trong quá trình học, ông B. đã thể hiện tình cảm thân mật. Còn cô Y. chỉ học khoảng một tháng rồi không học nữa. Đến sáng 2-4-2010, cô kêu ông B. lấy xe chở mình đến trường lấy bằng tốt nghiệp. Ăn sáng xong, cô đổi ý không muốn đến trường mà quay sang mượn xe của ông B. để đi chơi với bạn. Cô Y. bảo khi nào bạn về quê sẽ trả xe, ông đồng ý.
Sau khi gặp bạn, cô Y. nảy sinh ý định xấu nên mang xe bán lấy 6 triệu đồng. Số tiền này cô trả tiền khách sạn cho bạn và tiêu xài cá nhân. Chờ lâu không thấy cô Y. trả xe, ông B. gọi điện thoại hỏi. Cô bảo ông chờ thêm một thời gian nữa.
Ngày 5-5-2010, ông B. tiếp tục hỏi xe, cô Y. thú nhận đã mang đi cầm. Trước tình hình này, ông B. đưa 10 triệu đồng bảo cô chuộc xe về. Hơn 10 ngày sau, vẫn không thấy xe, ông đã âm thầm đi báo công an. Trong khi chờ kết quả xử lý, ông B. yêu cầu cô Y. viết giấy xin lỗi và giấy hẹn nợ. Tiếp đó, ông còn gửi mail hỏi xe nhưng chỉ nhận được lời hứa hẹn...
Bị khởi tố vì lừa đảo
Ngày 14-10, ông B. giả hẹn đưa tiền thêm để cô Y. lấy lại xe. Cô tưởng thật đi đến lấy thì bị bắt. Sau đó, cô Y. bị khởi tố về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng được tại ngoại vì có thai.
Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, kiểm sát viên phụ trách vụ án thấy rằng cô Y. chỉ nảy sinh ý định chiếm đoạt sau khi có xe nên không cấu thành tội lừa đảo. Đó là hành vi lạm dụng tín nhiệm nhưng cũng chưa thể cấu thành tội này vì cô Y. không có thủ đoạn giả dối, không bỏ trốn cũng không dùng tiền vào mục đích xấu dẫn đến không còn khả năng trả nợ. Từ nhận định trên, kiểm sát viên đã đề xuất đình chỉ vụ án.
Tuy nhiên, đề xuất trên đã không được chấp nhận. Vừa qua, VKS đã ra cáo trạng truy tố cô Y. về tội lừa đảo.
Không phạm tội?
Trao đổi về vụ án, đã có hai luồng ý kiến khác nhau về tội danh của cô Y. Một luồng ý kiến đồng tình với vị kiểm sát viên cho rằng hành vi của cô Y. không đủ yếu tố cấu thành tội lừa đảo. Cùng quan điểm này, luật sư Trịnh Công Minh (Đoàn Luật sư TP.HCM) phân tích qua sự việc cho thấy cô Y. không có ý định gian dối chiếm đoạt xe của ông B. trước khi mượn. Việc mượn xe cũng rất thường tình vì hai người quan hệ thân thiết. Chỉ sau khi có xe, cô Y. mới nảy sinh ý xấu. Tuy nhiên, trong tội lừa đảo, ý chí gian dối muốn lấy tài sản người khác phải có trước rồi mới đến hành vi chiếm đoạt tài sản. Do vậy, hành vi của cô Y. chưa thỏa mãn các dấu hiệu của tội danh này.
Tuy nhiên, ý kiến ngược lại cho rằng việc truy tố cô Y. về tội lừa đảo là chính xác. Bởi lẽ sau khi bán xe, cô Y. lại nói rằng chỉ mang cầm. Tin lời, ông B. đưa tiền cho cô đi chuộc. Thế nhưng cô Y. không chuộc nhưng vẫn hứa rằng sẽ đem xe trả. Sau nhiều lần cô Y. hứa mà không giữ lời nên ông B. mới phải dùng đến biện pháp đưa thêm tiền để vạch trần sự gian dối của cô Y. Ở đây, hành vi lừa đảo của cô Y. đã rõ là nhằm chiếm đoạt tiền và xe của ông B.
Chỉ là quan hệ dân sự Với những trường hợp tương tự như cô Y., họ thường bị truy tố tội lạm dụng tín nhiệm trong khi thực tế chưa đủ yếu tố cấu thành tội này. Dấu hiệu cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm là có được tài sản rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó, sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả nợ. Trong vụ này, sau khi mượn xe, cô Y. đã tự định đoạt (đem bán) tài sản không thuộc sở hữu của mình là trái pháp luật. Tuy nhiên, cô không bỏ trốn mà vẫn liên lạc thường xuyên và cam kết sẽ trả xe. Cô cũng không dùng tiền bán xe vào mục đích bất hợp pháp (như dùng tiền đánh bạc, buôn lậu, đầu cơ, buôn bán ma túy…). Như vậy, cũng không thể truy cứu cô Y. về tội lừa đảo lẫn tội lạm dụng. Đây chỉ là quan hệ dân sự. Ông B. có thể khởi kiện ra tòa đòi cô Y. trả xe. Một thẩm phán TAND TP.HCM |
PHƯƠNG LOAN