Theo đó, sẽ phát triển bền vững nuôi tôm hùm bằng lồng bè trong vũng, vịnh và biển ven bờ. Các cơ sở nuôi tôm hùm phải đảm bảo các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về nuôi trồng thủy sản và từng bước được cơ quan quản lý địa phương cấp mã số nhận diện giúp truy xuất được nguồn gốc sản phẩm tôm hùm.
Mục tiêu đặt ra là đến năm 2020, nuôi bằng lồng bè trong vũng, vịnh kín và biển ven bờ đạt thể tích lồng nuôi 1 triệu m3, sản lượng 1.940 tấn/năm. Giá trị hàng hóa tôm hùm đạt 3.200 tỉ đồng/năm.
Đến năm 2030, nuôi bằng lồng bè trong vịnh kín và biển hở ven bờ đạt thể tích lồng nuôi hơn 1 triệu m3, sản lượng 2.200 tấn/năm. Nuôi trên bờ diện tích mặt đất 160 ha, sản lượng 480 tấn/năm. Giá trị hàng hóa đạt 4.300 tỉ đồng/năm. Sản xuất được 1 triệu con giống nhân tạo đảm bảo chất lượng cho nuôi thương phẩm. Về đối tượng nuôi, tập trung phát triển nuôi chủ lực là tôm hùm bông, tôm hùm xanh, tôm hùm đỏ và tôm hùm tre.
Quy hoạch nêu rõ vùng nuôi tôm hùm tập trung tại các tỉnh Quảng Bình, TP Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận.
Nuôi tôm hùm ở đảo Lý Sơn. Ảnh: Internet
Quyết định cũng nêu rõ những giải pháp về cơ chế chính sách thực hiện. Theo đó, ngân sách nhà nước đầu tư nâng cấp các trung tâm giống quốc gia, xây dựng các công trình, cơ sở vật chất kỹ thuật thiết yếu cho các vùng nuôi tôm hùm tập trung; đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ và nhập công nghệ mới, tiên tiến, kinh phí cho công tác xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu và khuyến ngư.
Về khoa học công nghệ và khuyến ngư, huy động nguồn lực để tổ chức nghiên cứu tập trung, dài hạn trên cơ sở hợp tác với các quốc gia như Úc, New Zealand, Na Uy hoặc nhập công nghệ cao để chủ động sản xuất giống nhân tạo tôm hùm bông và công nghệ nuôi tôm hùm trên bờ.
Tổng vốn đầu tư cho các dự án ưu tiên là 223 tỉ đồng và được phân thành hai giai đoạn. Từ nay đến năm 2020 đầu tư 72 tỉ đồng, trong đó từ ngân sách nhà nước là 60 tỉ đồng; định hướng từ 2020 đến 2030 là 151 tỉ đồng, trong đó từ ngân sách nhà nước là 117 tỉ đồng.