Ban chủ tọa hội thảo gồm PGS.TS Đỗ Văn Đại (Trưởng khoa Luật Dân sự), TS Nguyễn Xuân Quang (Phó Trưởng khoa Luật Dân sự).
Tham gia hội thảo còn có thẩm phán Nguyễn Huy Hoàng (Phó Chánh án TAND quận Gò Vấp), TS Nguyễn Phước Quý Quang (Chủ tịch Hội đồng trường Đại học Công nghệ Miền Đông), TS Hoàng Thị Việt Anh (Trưởng khoa Luật Đại học Sài Gòn).
PGS.TS Đỗ Văn Đại chủ trì hội nghị. Ảnh: YC
Không đăng ký giao dịch bảo đảm có vô hiệu?
Bàn về giá trị pháp lý của biện pháp bảo đảm không được đăng ký, theo ThS. Huỳnh Quang Thuận khoản 1 Điều 298 BLDS 2015 quy định “việc đăng ký biện pháp bảo đảm là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp luật có quy định”. Như vậy, chỉ khi nào có một văn bản luật cụ thể quy định rằng giao dịch bảo đảm có hiệu lực khi được đăng ký thì việc đăng ký giao dịch bảo đảm mới là điều kiện để giao dịch bảo đảm phát sinh hiệu lực.
Vấn đề đặt ra là, nếu các bên không đăng ký biện pháp bảo đảm theo quy định của luật chuyên ngành thì giao dịch bảo đảm có đương nhiên bị vô hiệu hay không? Theo Th.S Thuận, hiện nay có nhiều quan điểm trái chiều.
TS Nguyễn Xuân Quang phát biểu . Ảnh: YC
Có quan điểm cho rằng BLDS 2015 đã khẳng định việc đăng ký biện pháp bảo đảm là điều kiện để phát sinh hiệu lực của giao dịch bảo đảm nếu luật có quy định. Do đó, trong trường hợp luật chuyên ngành quy định mà các bên không đăng ký biện pháp bảo đảm thì giao dịch bảo đảm đương nhiên không phát sinh hiệu lực. Thế nhưng một số ý kiến lại cho rằng, việc các bên không đăng ký giao dịch bảo đảm không làm mất đi hiệu lực của giao dịch bảo đảm mà chỉ làm mất đi quyền đối kháng với người thứ ba….
Quan điểm cá nhân của ThS. Thuận là ủng hộ cách hiểu theo hướng việc đăng ký biện pháp bảo đảm không ảnh hưởng đến hiệu lực của giao dịch bảo đảm đối với các bên tham gia và chỉ ảnh hưởng đến hiệu lực đối kháng với chủ thể thứ ba.
Bảo đảm bằng sổ tiết kiệm là thế chấp hay cầm cố?
Tại hội thảo ThS. Nguyễn Thị Nga (chuyên viên pháp lý ngân hàng TMCP Á Châu) và TS. Hoàng Thị Việt Anh nêu về việc áp dụng biện pháp bảo đảm cầm cố, thế chấp, bảo lãnh sổ tiết kiệm tại ngân hàng.
Trong một số trường hợp khi sổ tiết kiệm được làm tài sản bảo đảm ở các ngân hàng để vay vốn nhưng người vay vẫn giữ sổ tiết kiệm, ngân hàng chỉ phong tỏa sổ tiết kiệm. Vậy trong trường hợp này sổ tiết kiệm làm tài sản bảo đảm ở ngân hàng được xem là cầm cố hay thế chấp? Vì khi xác định các hình thức bảo đảm khác nhau quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ khác nhau.
ThS. Nguyễn Thị Nga phát biểu. Ảnh: YC
Theo Th.S Nga hiện nay có nhiều luồng ý kiến. Có ý kiến cho rằng với quy định về thế chấp và cầm cố thì 2 biện pháp này chỉ khác nhau ở chỗ là có sự chuyển giao tài sản hay không? Sổ tiết kiệm được sử dụng để làm tài sản bảo đảm nhưng ngân hàng chỉ phong tỏa số tiền còn bên bảo đảm vẫn giữ thẻ tiết kiệm. Như vậy trong trường hợp này không thể là cầm cố sổ tiết kiệm mà phải là thế chấp sổ tiết kiệm.
Có ý kiến lại cho rằng, xét về bản chất dù ngân hàng có cầm sổ tiết kiệm hay không thì tài sản bảo đảm là tiền gửi đó đã bị Ngân hàng phong tỏa. Số tiền gửi chính là tài sản hiện hữu tại thời điểm bảo đảm, đã được ngân hàng phong tỏa nên là tài sản cầm cố...
Th.S Nga cho rằng nếu khách hàng vay tiền tại Ngân hàng và bảo đảm bằng sổ tiết kiệm tại Ngân hàng đã gửi tiền đó thì cho dù khách hàng có giữ sổ tiết kiệm hay không giữ sổ tiết kiệm thì Ngân hàng cũng đã phong tỏa số tiền gửi đó để làm biện pháp bảo đảm, vậy căn cứ Điều 309 BLDS 2015 thì đây là biện pháp cầm cố. Còn nếu khách hàng đem sổ tiết kiệm đi làm biện pháp bảo đảm tại Ngân hàng khác để vay tiền thì đó là biện pháp thế chấp (theo Điều 317 BLDS 2015).
Quang cảnh hội nghị. Ảnh: YC
Ký quỹ khi ký hợp đồng với người lao động là sai?
Liên quan đến các công cụ đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người lao động trong quan hệ lao động, ThS. Đoàn Công Yên nói về một vụ tranh chấp xảy ra trên thực tế. Công ty T. yêu cầu anh N. đóng tiền ký quỹ cho công ty 10.000.000 đồng khi ký HĐLĐ năm 2015. Theo các HĐLĐ đã ký kết, công việc của anh N là nhân viên lái xe chất lượng cao cho công ty.
Có quan điểm cho rằng, việc ký quỹ của anh N trong trường hợp này là nhằm bảo đảm tránh rủi ro đối với tài sản (xe ô tô) mà công ty đã giao cho anh N sử dụng chứ không phải là biện pháp đảm đảm để giao kết, thực hiện HĐLĐ. Do đó, công ty yêu cầu anh N ký quỹ là hợp pháp.
Trái ngược với quan điểm trên, khi xét xử tòa tuyên buộc công ty trả lại cho anh N số tiền trên vì cho rằng công ty đã vi phạm khoản 2 Điều 20 BLLĐ năm 2012 về những hành vi người sử dụng lao động không được làm là “Yêu cầu người lao động phải thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động”...