Tiến sĩ - Luật sư PHAN ĐĂNG THANH: Tư tưởng nhân quyền của người Việt đã có từ xưa

Tiến sĩ - Luật sư PHAN ĐĂNG THANH: Tư tưởng nhân quyền của người Việt đã có từ xưa

(PLO)- TS - LS Phan Đăng Thanh cho rằng tư tưởng nhân quyền ở Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long là sự liên tục lịch sử, là truyền thống vẻ vang, là văn hiến của người Việt Nam.

Hôm nay (19-8), tạp chí Xưa và Nay sẽ tổ chức tọa đàm trao đổi về cuốn sách Nhân quyền của người Việt từ Bộ luật Hồng Đức đến Bộ luật Gia Long. Đây là công trình nghiên cứu khoa học dày công của hai tác giả: TS - Luật sư (LS) Phan Đăng Thanh và LS Trương Thị Hòa.

Cuốn sách khẳng định Bộ luật Hồng Đức được coi như bộ luật nhân quyền đầu tiên của người Việt, xứng đáng được xếp vào danh sách những bộ luật cổ tiêu biểu của thế giới về quyền con người. Đặc biệt, hai tác giả còn cho rằng Bộ luật Gia Long (nhà Nguyễn) sau này đã kế thừa, phát triển các giá trị nhân quyền của Bộ luật Hồng Đức…

Trao đổi với Pháp Luật TP.HCM, TS-LS Phan Đăng Thanh nói: “Chúng tôi đã “thai nghén” công trình này từ gần 30 năm trước, khi tôi còn làm ở báo Pháp Luật TP.HCM…”.

TS-LS Phan Đăng Thanh khi còn làm việc tại báo Pháp Luật TP.HCM (bìa phải là ông Mai Ngọc Phước, Tổng Biên tập báo hiện nay). Ảnh: HTD

TS-LS Phan Đăng Thanh khi còn làm việc tại báo Pháp Luật TP.HCM (bìa phải là ông Mai Ngọc Phước, Tổng Biên tập báo hiện nay). Ảnh: HTD

TS-LS Phan Đăng Thanh và LS Trương Thị Hoà tại buổi giới thiệu sách Nhân quyền của người Việt từ Bộ luật Hồng Đức đến Bộ luật Gia Long vào sáng nay (19-8). Ảnh: DI LINH

TS-LS Phan Đăng Thanh và LS Trương Thị Hoà tại buổi giới thiệu sách Nhân quyền của người Việt từ Bộ luật Hồng Đức đến Bộ luật Gia Long vào sáng nay (19-8). Ảnh: DI LINH

“Bút chiến” về một bản dịch Bộ luật Gia Long

. Phóng viên: Bộ luật Gia Long (Hoàng Việt luật lệ) nhiều thế kỷ nay vẫn được giới nghiên cứu nhận định là copy nguyên xi từ luật nhà Thanh và coi là một bước lùi so với Bộ luật Hồng Đức. Nhận định ấy đã được “đóng đinh” bởi giới sử học. Vậy cơ sở nào để công trình của ông đưa ra những nhận định khác biệt?

+ TS-LS Phan Đăng Thanh: Nói về cổ luật Việt Nam, chỉ có hai bộ luật gần nhất là Bộ luật Hồng Đức nhà Hậu Lê và Bộ luật Gia Long thời nhà Nguyễn còn lưu lại.

Để đưa ra được những nội dung, nhận định trong cuốn sách Nhân quyền của người Việt từ Bộ luật Hồng Đức đến Bộ luật Gia Long, tôi đã đọc, nghiên cứu rất nhiều tài liệu về cổ luật, rồi lịch sử Việt Nam, ít nhất là 105 cuốn sách và bảy nội dung khác trên báo chí. Nhưng có thể nói căn cứ đưa ra những nhận định khác biệt thì phải thông qua bản dịch từ chữ Hán ra chữ Việt Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long của Viện Sử học, xuất bản năm 2009. Muốn biết bộ luật sau thụt lùi hay tiến bộ so với bộ luật trước đó thì phải đọc để so sánh các điều luật.

Tiếp đến là cuốn sách Hoàng Việt luật lệ - Một cách tiếp cận mới của tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy, xuất bản năm 2019. Cô Thủy cũng chính là người có luận án tiến sĩ bằng chữ Nho tại ĐH Vũ Hán (Trung Quốc) với nội dung “So sánh Bộ luật Gia Long với Đại Thanh luật lệ”. Luận án này nghiên cứu và kết luận Bộ luật Gia Long không copy nguyên xi mà có sửa đổi, có những điểm tiến bộ.

TS-LS Phan Đăng Thanh (bìa phải) trong một buổi gặp mặt giao lưu với bạn đọc trong khuôn khổ chương trình đố vui pháp luật "À ra thế!" của báoPháp Luật TP.HCM. (Kế LS Thanh là ông Phạm Phú Tâm, nguyên Tổng Biên tập báo Pháp Luật TP.HCM). Ảnh: HTD

TS-LS Phan Đăng Thanh (bìa phải) trong một buổi gặp mặt giao lưu với bạn đọc trong khuôn khổ chương trình đố vui pháp luật "À ra thế!" của báoPháp Luật TP.HCM. (Kế LS Thanh là ông Phạm Phú Tâm, nguyên Tổng Biên tập báo Pháp Luật TP.HCM). Ảnh: HTD

. Điều gì khiến ông và LS Trương Thị Hòa (vợ ông) phát hiện điểm khác biệt và thôi thúc cả hai nghiên cứu sâu về nó?

+ Hàng trăm năm nay, giới sử học, luật học đánh giá Bộ luật Hồng Đức là “khuôn vàng thước ngọc” của thời kỳ phong kiến Việt Nam, là khuôn mẫu để trị dân. Trong khi đó, Bộ luật Gia Long thì lại bị đánh giá thấp, với hai nhận định chính: Thứ nhất là Bộ luật Gia Long copy nguyên xi luật của nhà Thanh (Trung Quốc), không sáng tạo. Thứ hai là Bộ luật Gia Long xóa bỏ những điểm tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức.

Thế nhưng, điểm mấu chốt là những người đưa ra nhận định lại không nói được xóa bỏ điều nào, xóa bỏ cái gì, chống lại văn hóa dân tộc Việt Nam ở chỗ nào. Thậm chí có người nói xóa bỏ quyền lợi của phụ nữ nhưng không chỉ ra được điều luật nào (của Bộ luật Gia Long).

Đến năm 1994, Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin xuất bản bản dịch Bộ luật Gia Long của hai tác giả là ông Nguyễn Q Thắng và ông Nguyễn Văn Tài. Đây là bản dịch trọn bộ tiếng Việt đầu tiên tại Việt Nam. Trong đó, đề tựa là bộ luật nhân đạo nhất, lớn nhất của lịch sử phong kiến Việt Nam, ngược lại với nhận định đã tồn tại hàng trăm năm trước đó.

Điều này khiến tôi đặt ra câu hỏi: Sự thật là gì?

TS-LS Phan Đăng Thanh tặng sách cho LS Trương Trọng Nghĩa (bìa trái) và các phóng viên báo Pháp Luật TP.HCM đạt giải Báo chí Thành phố năm 2015. Ảnh: HOÀNG GIANG

TS-LS Phan Đăng Thanh tặng sách cho LS Trương Trọng Nghĩa (bìa trái) và các phóng viên báo Pháp Luật TP.HCM đạt giải Báo chí Thành phố năm 2015. Ảnh: HOÀNG GIANG

Thời điểm bản dịch của Nguyễn Q Thắng và Nguyễn Văn Tài được xuất bản, trên báo Pháp Luật TP.HCM, số ra ngày 8-11-1994, tôi có chắp bút một bài giới thiệu. Về nội dung bản dịch, tôi cho rằng “Đây là một sự đánh giá mới, có phần táo bạo, vì nó hoàn toàn trái ngược với sự đánh giá chung của những nhà nghiên cứu lịch sử và pháp chế sử trước đây”.

Thời đó, tôi dạy tại Trường ĐH Mở - Bán công TP.HCM, tôi có nói với học trò là các em phụ thầy đọc đi (đọc bản dịch) thì học trò của tôi có thắc mắc về một số nội dung chưa thống nhất với nhau giữa phần trước và phần sau của cùng bộ luật.

Cụ thể là trong lời dẫn, hai tác giả đã trích một đoạn trong phần dịch để chứng minh “tinh thần nhân đạo” của Bộ luật Gia Long với nội dung là Bộ luật Gia Long đã bỏ hình phạt lăng trì. Thế nhưng nó lại không phù hợp với một số quy định khác cũng ghi tại bản dịch ấy. Ví dụ như một số tội “mưu phản nghịch lớn”, “mưu sát ông bà, cha mẹ”… vẫn có hình phạt lăng trì.

Tôi có nêu lên thắc mắc của các em học sinh, tiếp sau đó là các bài phản biện, trao đổi thêm với chính tác giả bản dịch trên báo Pháp Luật TP.HCM. Thế nhưng cứ cãi qua cãi lại vẫn không có cơ quan, tổ chức nào phân định được ai đúng - ai sai.

LS Phan Đăng Thanh cùng nhà báo Mai Ngọc Phước - Phó Tổng Biên tập báo Pháp Luật TP.HCM (nay là Tổng Biên tập) - chủ trì buổi giao lưu với những bạn đọc thường xuyên tham gia chương trình Đố vui pháp luật "À, Ra Thế!" của Báo vào năm 2010. Ảnh: HTD

LS Phan Đăng Thanh cùng nhà báo Mai Ngọc Phước - Phó Tổng Biên tập báo Pháp Luật TP.HCM (nay là Tổng Biên tập) - chủ trì buổi giao lưu với những bạn đọc thường xuyên tham gia chương trình Đố vui pháp luật "À, Ra Thế!" của Báo vào năm 2010. Ảnh: HTD

. Và từ đó, ông và LS Trương Thị Hòa bắt đầu có ý định nghiên cứu, thai nghén cuốn sách?

+ Sau trận “bút chiến” bất phân thắng bại trên báo, tôi lại tiếp tục quá trình nghiên cứu các cuốn cổ luật, lịch sử Việt Nam.

Vì không biết đọc chữ Nho nên tôi không có tài liệu, căn cứ để có câu trả lời. May sao thời điểm đó, tôi đọc được luận án tiến sĩ ở ĐH Vũ Hán của cô Thủy như đã nói ở trên. Điều này càng thôi thúc tôi phải tìm ra câu trả lời cho những thắc mắc của mình, sự thật là như thế nào.

Tôi luôn đau đáu về việc này. Thời điểm phải đi bệnh viện, trước khi lên bàn mổ, tôi còn nói với bác sĩ: “Bác sĩ ráng cứu tôi, tôi còn cuốn sách chưa kịp viết…”.

Nhà báo Nam Đồng - Tổng Biên tập báo Pháp Luật TP.HCM trước đây - trao kỷ niệm chương Vì sự nghiệp 20 năm làm báo cho LS Phan Đăng Thanh. Ảnh: HTD

Nhà báo Nam Đồng - Tổng Biên tập báo Pháp Luật TP.HCM trước đây - trao kỷ niệm chương Vì sự nghiệp 20 năm làm báo cho LS Phan Đăng Thanh. Ảnh: HTD

Bộ luật Gia Long kế thừa Bộ luật Hồng Đức

. Ông bắt đầu nghiên cứu và hệ thống hóa những tiến bộ nhân quyền trong Bộ luật Gia Long từ khi nào?

+ Cuốn sách này là thành quả của 30 năm lao động chứ không chỉ ngày một ngày hai. Thời còn làm ở báo Pháp Luật TP.HCM, tôi đã muốn nghiên cứu sâu nhưng thực sự chưa có đủ tài liệu cũng như thời gian. Sau này, khi đã nghỉ hưu thì bắt đầu viết cuốn Triều đại Hậu Lê và quyền con người trong Bộ luật Hồng Đức, xuất bản năm 2021, trong đó khẳng định Bộ luật Hồng Đức có hơn 20 quyền con người.

Đến thời điểm dịch COVID-19, tôi và bà nhà tôi (LS Trương Thị Hòa) khi đó cũng đã tập hợp đủ các tài liệu cần thiết nên quyết tâm đọc đầy đủ từ lịch sử, chính sử triều Nguyễn, đọc hai bộ luật để xem Bộ luật Gia Long có chỗ nào nói về nhân quyền hay không.

Đọc xong thì phát hiện Bộ luật Hồng Đức có nhân quyền nào thì Bộ luật Gia Long cũng có nhân quyền đó, thậm chí còn cao hơn. Ví dụ, việc để cho dân quyền tự quyết một số vấn đề như phần tài sản thừa kế để lại… Sự phát hiện này tôi ví như là Acsimet hét lên ơ-rê-ka khi tìm ra nguyên lý về lực đẩy.

Báo Pháp Luật TP.HCM thăm TS-LS Phan Đăng Thanh nhân dịp ông xuất bản sách mới. Ảnh: DI LINH

Báo Pháp Luật TP.HCM thăm TS-LS Phan Đăng Thanh nhân dịp ông xuất bản sách mới. Ảnh: DI LINH

. Như ông nói ở trên, những nghiên cứu của ông liên quan đến Bộ luật Gia Long được đăng trên Nguyệt san Pháp Luật TP.HCM nhưng cuộc “bút chiến” đó lại bất phân thắng bại vì không ai phân xử. Ông có hệ thống lại và kiến nghị một cách chính thức để giới sử học chính thống và cơ quan phụ trách khoa giáo xem lại nó?

+ Thời điểm ấy, sau những tranh cãi qua lại, Ban Tuyên huấn Thành ủy (nay là Ban Tuyên giáo Thành ủy) có làm việc với báo Pháp Luật TP.HCM, hướng dẫn trình lên Chính phủ để Chính phủ phân định cái nào đúng, cái nào sai.

Sau đó thì tôi có viết một bài (Pháp Luật TP.HCM đứng tên và đăng trên báo) với lập luận cụ thể, đề nghị cơ quan có thẩm quyền (khi đó là Bộ VH-TT) có ý kiến trước công luận, thu hồi bản dịch chưa đúng đang lưu hành theo quy định của Luật Xuất bản.

LS Phan Đăng Thanh luôn tặng sách (do ông và LS Trương Thị Hòa là tác giả) và hoa cho các phóng viên, biên tập viên báo Pháp Luật TP.HCM đạt giải báo chí, ngay khi ông còn công tác ở báo hay lúc đã nghỉ hưu. Ảnh: HTD

LS Phan Đăng Thanh luôn tặng sách (do ông và LS Trương Thị Hòa là tác giả) và hoa cho các phóng viên, biên tập viên báo Pháp Luật TP.HCM đạt giải báo chí, ngay khi ông còn công tác ở báo hay lúc đã nghỉ hưu. Ảnh: HTD

Truyền thống nhân quyền lâu đời của Việt Nam

"Nhân quyền của người Việt - từ Bộ luật Hồng Đức đến Bộ luật Gia Long" của hai tác giả TS-LS Phan Đăng Thanh và LS Trương Thị Hòa gợi mở về hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu về nhân quyền/quyền con người của người Việt. Ảnh: TĐB

"Nhân quyền của người Việt - từ Bộ luật Hồng Đức đến Bộ luật Gia Long" của hai tác giả TS-LS Phan Đăng Thanh và LS Trương Thị Hòa gợi mở về hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu về nhân quyền/quyền con người của người Việt. Ảnh: TĐB

Dựa theo tiêu chuẩn quyền con người (vốn là giá trị quý giá nhất của chung nhân loại - qua đó có thể đánh giá trình độ phát triển của mỗi dân tộc), chúng ta tự hào Bộ luật Hồng Đức như bộ luật nhân quyền đầu tiên của người Việt mà vị vua thứ tư của triều đại Hậu Lê (1428-1789) là vua Lê Thánh Tông (1442-1497, trị vì: 1460-1497) đã dày công tổng hợp, sáng tạo nên.

Vua Lê Thánh Tông xứng danh là một chiến sĩ tiên phong vĩ đại của phong trào quốc tế vì quyền con người ở khu vực Đông Nam châu Á lúc bấy giờ, dù vào thế kỷ 15, khái niệm về nhân quyền chưa xuất hiện.

Sau đó, nhà Nguyễn (1802-1945) đã tiếp tục kế thừa, phát triển bộ luật ấy thông qua Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long) - bộ luật cơ bản của triều Nguyễn do vua Gia Long - vị vua khai sáng triều Nguyễn quan tâm, trực tiếp chỉ đạo thực hiện và ban hành năm 1815.

Chúng ta có quyền tự hào về truyền thống nhân quyền lâu đời của dân tộc Việt Nam.

LS TRƯƠNG THỊ HÒA - LS PHAN ĐĂNG THANH

Nhiều bạn đọc báo Pháp Luật TP.HCM tham gia chương trình Đố vui pháp luật rất thích thú khi được LS Phan Đăng Thanh "pháp luật đầy mình" ký tặng sách do ông biên soạn. Mục Đố vui pháp luật và sau này là chương trình "À, Ra Thế!" do LS Thanh và nhà báo Nam Đồng - Tổng Biên tập Báo khi ấy - khởi xướng để tạo sân chơi bổ ích cho bạn đọc. "Không được giải, cũng được luật" là slogan của chương trình "À, Ra Thế!" mà Ban Biên tập Báo đề ra với mong muốn làm sao cho bạn đọc và các chuyên gia pháp lý của Báo cùng "đào sâu, nhớ lâu". Đó cũng là mục tiêu của Báo trong tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến mọi nhà. Ảnh: HTD

Nhiều bạn đọc báo Pháp Luật TP.HCM tham gia chương trình Đố vui pháp luật rất thích thú khi được LS Phan Đăng Thanh "pháp luật đầy mình" ký tặng sách do ông biên soạn. Mục Đố vui pháp luật và sau này là chương trình "À, Ra Thế!" do LS Thanh và nhà báo Nam Đồng - Tổng Biên tập Báo khi ấy - khởi xướng để tạo sân chơi bổ ích cho bạn đọc. "Không được giải, cũng được luật" là slogan của chương trình "À, Ra Thế!" mà Ban Biên tập Báo đề ra với mong muốn làm sao cho bạn đọc và các chuyên gia pháp lý của Báo cùng "đào sâu, nhớ lâu". Đó cũng là mục tiêu của Báo trong tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến mọi nhà. Ảnh: HTD

Sự liên tục của lịch sử

. Cả ông và LS Trương Thị Hòa đều đã lớn tuổi, ông bà đã lao động như thế nào, vượt qua những trở ngại công nghệ ra sao để có công trình quan trọng như đã trình bày trong cuốn sách?

+ Tôi và bà nhà tôi có chung niềm đam mê nghiên cứu. Lúc trước, khi đến tuổi về hưu cũng được động viên tiếp tục ở lại cống hiến. Tuy nhiên, tôi chọn nghỉ hưu để dành thời gian cho nghiên cứu.

Mặc dù tuổi cao (LS Phan Đăng Thanh nay đã 77 tuổi), cũng trải qua phẫu thuật trước đó nhưng… đam mê mà! Tôi tập thể dục, ăn uống đầy đủ để có sức khỏe đảm bảo cho việc nghiên cứu. Một ngày ngoài thời gian ăn, nghỉ, tập thể dục thì toàn bộ thời gian còn lại đều say mê đọc, viết.

Bản thảo thì tôi viết tay, sau đó nhờ người đánh máy lại, rồi bà nhà tôi đọc, góp ý chỉnh sửa qua lại nhiều lần.

Để xuất bản cuốn Nhân quyền của người Việt từ Bộ luật Hồng Đức đến Bộ luật Gia Long thì bản thảo phải sửa tới sửa lui năm lần, sau một năm rưỡi kể từ khi gửi bản thảo lần đầu mới có thể xuất bản.

TS-LS Phan Đăng Thanh (trái) ở tuổi 77 vẫn chăm tập thể dục, ăn uống khoa học để có đủ sức khỏe thực hiện đam mê nghiên cứu của mình. Ảnh: DI LINH

TS-LS Phan Đăng Thanh (trái) ở tuổi 77 vẫn chăm tập thể dục, ăn uống khoa học để có đủ sức khỏe thực hiện đam mê nghiên cứu của mình. Ảnh: DI LINH

. Ông có nghĩ từ những phát hiện và chứng minh của mình, giới sử học sẽ tìm hiểu và có cái nhìn khách quan, công bằng hơn với Bộ luật Gia Long?

+ Đó là ưu tư, mong muốn của tôi. Truyền thống dân tộc của ta từ thời Lý đã có luật lệ, có những quy định về bảo vệ con người. Điều này cho thấy quyền con người của dân rất lớn, quan trọng.

Phải khẳng định nhân quyền được quy định ở Bộ luật Hồng Đức, tiếp đến là Bộ luật Gia Long, nó là sự “liên tục lịch sử”, truyền thống vẻ vang của dân tộc mình, là “văn hiến của người Việt Nam” chứ không phải bị đứt gãy sau Bộ luật Hồng Đức.

Về phần mình, tôi đã cố gắng hết sức. Tôi cũng rất cảm động sau khi cuốn sách được xuất bản thì có nhiều người gửi email khen, phản hồi tích cực. Tôi và LS Trương Thị Hòa cũng chỉ góp một viên gạch vào ngôi nhà nghiên cứu lịch sử pháp quyền Việt Nam mà thôi.

. Xin cảm ơn và kính chúc ông cùng LS Trương Thị Hòa luôn mạnh khỏe, tiếp tục có những đóng góp cho nền học thuật nước nhà.

Những cột mốc lịch sử về nhân quyền của Việt Nam

TS-LS Phan Đăng Thanh bên bàn làm việc. Ảnh: DI LINH

TS-LS Phan Đăng Thanh bên bàn làm việc. Ảnh: DI LINH

Cuốn sách Nhân quyền của người Việt từ Bộ luật Hồng Đức đến Bộ luật Gia Long của tác giả TS-LS Phan Đăng Thanh và LS Trương Thị Hòa gồm năm chương.

Hai chương đầu giới thiệu về lịch sử ra đời, nội dung và giá trị của Bộ luật Hồng Đức. Trong đó, tác giả chỉ rõ Bộ luật Hồng Đức là bộ luật Việt Nam đầu tiên đề cao nhân quyền với 24 quyền như quyền sống, quyền bình đẳng, quyền hôn nhân tự nguyện…

Ba chương tiếp theo nói về Bộ luật Gia Long của nhà Nguyễn.

Trong thời gian dài, nhiều người cho rằng Bộ luật Gia Long sao chép bộ luật nhà Thanh (Trung Quốc) và không kế thừa được những quy tắc tiến bộ, mang tính dân tộc của triều đại Hậu Lê (trong Bộ luật Hồng Đức).

Tuy nhiên, trong cuốn sách này, hai tác giả chỉ ra Bộ luật Gia Long đã kế thừa và phát triển giá trị nhân quyền của Bộ luật Hồng Đức như thế nào qua những phân tích và điều luật cụ thể, với 23 loại quyền.

Bộ luật Gia Long đã kế thừa Bộ luật Hồng Đức về bảo vệ quyền con người thông qua việc kế thừa truyền thống dân tộc tự quyết, quyền được sống (những hành vi xâm phạm thân thể, sinh mạng con người đều bị luật nhà Hậu Lê và luật nhà Nguyễn răn đe, trừng phạt nghiêm khắc bằng ngũ hình), quyền của phụ nữ (cả hai bộ luật đều quy định phụ nữ không phải chịu hình phạt đánh bằng trượng như đàn ông; trong hôn nhân, phụ nữ có quyền chủ động qua việc kết hôn, từ hôn, chung sống và ly hôn ở những mức độ nhất định…) và nhiều quyền khác.

Theo tác giả, không dừng lại ở đó, Bộ luật Gia Long cũng đã phát triển nhiều quyền so với Bộ luật Hồng Đức. Trong đó, có thể kể đến như phát triển về quyền thừa kế di sản khi không can thiệp sâu vào quyền định đoạt của người chủ sở hữu tài sản (như chế định thừa kế triều Nguyễn không quy định diện tích về tự sản (hương hỏa) -1/20 theo như Điều 388 Bộ luật Hồng Đức).

Bộ luật Gia Long cũng điều chỉnh về sự bất bình đẳng về phần thừa kế được hưởng giữa các con - bất luận là con của vợ cả, con của vợ lẽ hay con của nàng hầu đều được phần gia tài bằng nhau. Trong khi theo Bộ luật Hồng Đức, phần thừa kế của con vợ lẽ, nàng hầu thì phải kém, nghĩa là ít hơn phần của con vợ cả…

Từ đây, TS-LS Phan Đăng Thanh và LS Trương Thị Hòa cho rằng cần phải nhìn nhận đúng giá trị thực của Bộ luật Gia Long để bình luận khách quan, khoa học và cần trả lại sự công bằng cho Bộ luật Gia Long. “Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long đều xứng đáng là cột mốc lịch sử, một đóng góp quan trọng của dân tộc Việt Nam vào giá trị nhân quyền cao quý của nhân loại” - tác giả nhận định.

Đọc thêm