Chiều 17-6, với 92,96 % đại biểu tán thành, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng.
Luật đã quy định cụ thể chín trường hợp được miễn giấy phép xây dựng (tại khoản 2, Điều 89). Trong đó luật đã quy định chặt chẽ hơn về miễn giấy phép xây dựng đối với nhà ở riêng lẻ tại khu vực nông thôn.
Chủ nhiệm Uỷ ban khoa học công nghệ và môi trường Phan Xuân Dũng. Ảnh: Quochoi.vn
Miễn phép xây dựng nhà ở nông thôn: Chặt chẽ hơn
Trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự luật về nội dung này, Chủ nhiệm Uỷ ban khoa học công nghệ và môi trường Phan Xuân Dũng, cho biết có ý kiến đề nghị cấp giấy phép xây dựng ở nông thôn cần quản lý chặt chẽ hơn, cần có quy định về giới hạn quy mô xây dựng công trình đối với trường hợp miễn giấy phép ở nông thôn.
Đồng thời đề nghị bổ sung các công trình hạ tầng kỹ thuật viễn thông thụ động được miễn giấy phép xây dựng; xem xét việc không quy định trách nhiệm thông báo thời điểm khởi công xây dựng đối với nhà ở riêng lẻ được miễn phép ở nông thôn.
“Tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật đã quy định chặt chẽ hơn đối với việc miễn giấy phép xây dựng ở nông thôn, bổ sung giới hạn quy mô xây dựng công trình tại điểm i, khoản 2 Điều 89 Luật Xây dựng; bổ sung công trình hạ tầng kỹ thuật viễn thông thụ động vào trường hợp được miễn giấy phép xây dựng tại điểm đ khoản 2 Điều 89. Ngoài ra, điểm k, khoản 2 Điều 89 đã quy định đối tượng cụ thể không phải thông báo thời điểm khởi công xây dựng” - ông Dũng nói.
Cụ thể tại điểm i, khoản 2 Điều 89, luật quy định được miễn giấy phép xây dựng khi đáp ứng được các điều kiện như sau: Công trình xây dựng cấp IV, nhà ở riêng lẻ ở nông thôn có quy mô dưới 7 tầng và thuộc khu vực không có quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng khu chức năng hoặc quy hoạch chi tiết xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; Nhà ở riêng lẻ ở miền núi, hải đảo thuộc khu vực không có quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng khu chức năng; Trừ công trình, nhà ở riêng lẻ được xây dựng trong khu bảo tồn, khu di tích lịch sử - văn hóa.
Bên cạnh đó, tại điểm k, khoản 2, Điều 89 cũng nêu rõ chủ đầu tư xây dựng nhà ở riêng lẻ ở nông thôn không phải gửi thông báo thời điểm khởi công xây dựng, kèm theo hồ sơ thiết kế xây dựng theo quy định đến cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng tại địa phương để quản lý.
Một số quy định có thời hiệu sớm từ 15-8-2020
Một trong những điểm mới của luật là nới lỏng hơn đối với việc miễn phép xây dựng nhà ở riêng lẻ tại khu vực đô thị.
Cụ thể điểm e, khoản 2 Điều 89 Luật Xây dựng 2014 quy định nhà ở riêng lẻ tại khu vực đô thị chỉ được miễn giấy phép xây dựng trong trường hợp: “Nhà ở thuộc dự án phát triển đô thị, dự án phát triển nhà ở có quy mô dưới 7 tầng và tổng diện tích sàn dưới 500 m2 có quy hoạch chi tiết 1/500 đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt”
Sau khi sửa đổi, bổ sung, luật đã bỏ đi điều kiện “tổng diện tích sàn dưới 500 m2”, chỉ còn lại hai điều kiện quy mô dưới 7 tầng và có quy hoạch chi tiết 1/500.
Kết quả biểu quyết của Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng vào chiều 17-6.
Chủ nhiệm Uỷ ban khoa học công nghệ và môi trường Phan Xuân Dũng cũng cho biết theo dự thảo thì Luật này có hiệu lực thi hành từ 1-1-2021.
Tuy nhiên, để sớm tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, thuận lợi cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực đầu tư xây dựng triển khai các dự án, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội sau đại dịch COVID-19, một số quy định của luật sẽ có hiệu lực sớm hơn, từ 15-8-2020.
Những nội dung có hiệu lực từ 15-8-2020 gồm: Thẩm quyền thẩm định Báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây dựng của người quyết định đầu tư; miễn giấy phép xây dựng đối với công trình đã được cơ quan chuyên môn về xây dựng thẩm định thiết kế triển khai sau thiết kế cơ sở hoặc đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt báo cáo kinh tế - kỹ thuật; bãi bỏ thẩm quyền của Bộ Xây dựng và giao UBND cấp tỉnh cấp giấy phép xây dựng đối với công trình cấp đặc biệt (thể hiện tại khoản 2 Điều 3 dự thảo Luật).
9 trường hợp được miễn giấy phép xây dựng gồm: a) Công trình bí mật nhà nước; công trình xây dựng khẩn cấp; b) Công trình thuộc dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn đầu tư công được Thủ tướng Chính phủ, người đứng đầu cơ quan trung ương của tổ chức chính trị, VKSNDTC, TANDTC, Kiểm toán nhà nước, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan trung ương của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và của tổ chức chính trị - xã hội, Chủ tịch UBND các cấp quyết định đầu tư; c) Công trình xây dựng tạm theo quy định tại Điều 131 của Luật này; d) Công trình sửa chữa, cải tạo bên trong công trình hoặc công trình sửa chữa, cải tạo mặt ngoài không tiếp giáp với đường trong đô thị có yêu cầu về quản lý kiến trúc theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; nội dung sửa chữa, cải tạo không làm thay đổi công năng sử dụng, không làm ảnh hưởng đến an toàn kết cấu chịu lực của công trình, phù hợp với quy hoạch xây dựng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, yêu cầu về bảo vệ môi trường và an toàn phòng, chống cháy, nổ; đ) Công trình quảng cáo không thuộc đối tượng phải cấp giấy phép xây dựng theo quy định của pháp luật về quảng cáo; công trình hạ tầng kỹ thuật viễn thông thụ động theo quy định của Chính phủ; e) Công trình xây dựng trên địa bàn hai tỉnh trở lên, công trình xây dựng theo tuyến ngoài đô thị phù hợp với quy hoạch xây dựng hoặc quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; g) Công trình xây dựng đã được cơ quan chuyên môn về xây dựng thông báo kết quả thẩm định thiết kế xây dựng triển khai sau thiết kế cơ sở đủ điều kiện phê duyệt thiết kế xây dựng và đáp ứng các điều kiện về cấp giấy phép xây dựng theo quy định của Luật này; h) Nhà ở riêng lẻ có quy mô dưới 7 tầng thuộc dự án đầu tư xây dựng khu đô thị, dự án đầu tư xây dựng nhà ở có quy hoạch chi tiết 1/500 đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; i) Công trình xây dựng cấp IV, nhà ở riêng lẻ ở nông thôn có quy mô dưới 7 tầng và thuộc khu vực không có quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng khu chức năng hoặc quy hoạch chi tiết xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; nhà ở riêng lẻ ở miền núi, hải đảo thuộc khu vực không có quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng khu chức năng; trừ công trình, nhà ở riêng lẻ được xây dựng trong khu bảo tồn, khu di tích lịch sử - văn hóa; k) Chủ đầu tư xây dựng công trình quy định tại các điểm b, e, g, h và i khoản này, trừ nhà ở riêng lẻ quy định tại điểm i khoản này có trách nhiệm gửi thông báo thời điểm khởi công xây dựng, kèm theo hồ sơ thiết kế xây dựng theo quy định đến cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng tại địa phương để quản lý. |