VKSND Tối cao vừa ra quyết định ban hành quy định về quy trình kiểm sát việc xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù và kiểm sát việc tha tù trước thời hạn có điều kiện.
Trong đó đáng chú ý tại Điều 14 của quyết định này quy định về thực hiện quyền kháng nghị theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, quyết định không chấp nhận giảm thời hạn chấp hành án phạt tù.
Viện trưởng VKSND cấp tỉnh, Viện trưởng VKS quân sự cấp quân khu, Viện trưởng VKSND cấp cao, Viện trưởng VKS quân sự trung ương, Viện trưởng VKSND Tối cao có quyền kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định tại khoản 3 Điều 169 Luật Thi hành án hình sự đối với quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, quyết định không chấp nhận giảm thời hạn chấp hành án phạt tù của Tòa án, cụ thể như sau:
1. Viện trưởng VKSND cấp tỉnh, Viện trưởng VKSND Cấp cao thực hiện thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm đối với quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, quyết định không chấp nhận giảm thời hạn chấp hành án phạt tù của TAND cấp tỉnh. Viện trưởng VKS quân sự quân khu, Viện trưởng VKS quân sự trung ương thực hiện thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm đối với quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, quyết định không chấp nhận giảm thời hạn chấp hành án phạt tù của Tòa án quân sự cấp quân khu.
Thời hạn kháng nghị phúc thẩm đối với quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, quyết định không chấp nhận giảm thời hạn chấp hành án phạt tù của VKSND cấp tỉnh, VKS quân sự cấp quân khu là bảy ngày; của VKSND Cấp cao, VKS quân sự trung ương là 15 ngày theo quy định tại Điều 337 BLTTHS.
Nếu phát hiện quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, quyết định không chấp nhận giảm thời hạn chấp hành án phạt tù của tòa án cùng cấp vi phạm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật nhưng đã hết thời hạn kháng nghị phúc thẩm, Kiểm sát viên được phân công tham mưu lãnh đạo VKSND cấp tỉnh báo cáo ngay về VKSND Cấp cao; VKS quân sự cấp quân khu báo cáo ngay về VKS quân sự trung ương (Phòng 4) để kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo thẩm quyền, đồng thời, báo cáo về VKSND Tối cao (Vụ 8).
VKSND Cấp cao tại TP.HCM trong một phiên toà. Ảnh: NGÂN NGA
2. Viện trưởng VKSND Cấp cao, Viện trưởng VKS quân sự trung ương có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm đối với quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, quyết định không chấp nhận giảm thời hạn chấp hành án phạt tù của TAND cấp tỉnh, tòa án quân sự cấp quân khu; Viện trưởng VKSND Tối cao có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm đối với quyết định xem xét lại quyết định giảm thời hạn chấp hành phạt tù, quyết định không chấp nhận giảm thời hạn chấp hành án phạt tù của TAND Cấp cao, tòa án quân sự trung ương khi có căn cứ quy định tại Điều 371 BLTTHS.
Thời gian kháng nghị như sau:
a) Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng không có lợi cho người được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, người không được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù là không quá một năm kể từ ngày quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, quyết định không chấp nhận giảm thời hạn chấp hành án phạt tù có hiệu lực pháp luật.
b) Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng có lợi cho người được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, người không được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù được tiến hành bất cứ lúc nào kể từ ngày quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, quyết định không chấp nhận giảm thời hạn chấp hành án phạt tù có hiệu lực pháp luật.
3. Viện trưởng VKSND Tối cao, Viện trưởng VKSND Cấp cao, Viện trưởng VKS quân sự trung ương có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm đối với quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, quyết định không chấp nhận giảm thời hạn chấp hành án phạt tù của tòa án khi có căn cứ quy định tại Điều 398 BLTTHS. Thời hạn kháng nghị như sau:
a) Thời hạn kháng nghị tái thẩm theo hướng không có lợi cho người được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, người không được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù là không quá một năm kể từ ngày VKS nhận được tin báo về tình tiết mới được phát hiện.
b) Thời hạn kháng nghị tái thẩm theo hướng có lợi cho người được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì không hạn chế về thời gian kể từ ngày quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, quyết định không chấp nhận giảm thời hạn chấp hành án phạt tù có hiệu lực pháp luật.