Giải pháp cho mục tiêu nhiệt điện LNG theo quy hoạch điện VIII

(PLO)- Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII) đã xác định nguồn nhiệt điện khí tái hóa từ LNG (hay gọi tắt là khí LNG) chiếm tỉ trọng gần 15% tổng công suất toàn hệ thống điện vào năm 2030.
0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

Quy hoạch điện VIII đã xác định đến 2030, nguồn nhiệt điện khí (nhiệt điện LNG 14,9%) chiếm tỉ trọng khoảng trên 24% tổng công suất toàn hệ thống phát điện và là một trong các nguồn giúp đảm bảo cung cấp đủ, ổn định và an toàn hệ thống điện quốc gia.

Thúc đẩy phát triển cạnh tranh, hiệu quả

Bên cạnh đó, những năm sắp tới nguồn cung khí nội địa sẽ suy giảm, các mỏ khí mới được đưa vào vẫn chưa đủ bù đắp lượng khí thiếu hụt. Do đó, việc nhập khẩu LNG để bổ sung nguồn, đáp ứng nhu cầu trong nước là xu hướng tất yếu và cấp thiết.

Nhiều chuyên gia năng lượng cho rằng, chúng ta cần xây dựng hạ tầng kho cảng LNG mới, hiện đại, theo tiêu chuẩn quốc tế, tại các vị trí chiến lược, đủ khả năng tiếp nhận tàu chở LNG có kích thước lớn. Đồng thời xây dựng hệ thống tồn trữ và phân phối LNG, khí tái hóa từ LNG tại các khu vực tiêu thụ.

Việc nhập khẩu LNG cần được quy hoạch đồng bộ, tập trung với hệ thống cơ sở hạ tầng tiếp nhận, phân phối và thị trường tiêu thụ, tận dụng hệ thống phân phối khí hiện có để tối ưu chi phí đầu tư. Việc quy hoạch đồng bộ, tập trung các dự án nhập khẩu LNG (không phát triển dàn trải) giúp tiết kiệm nguồn lực xã hội, phát triển kinh tế và từ đó thúc đẩy thị trường LNG.

Kho cảng LNG Thị Vải (Bà Rịa - Vũng Tàu).

Kho cảng LNG Thị Vải (Bà Rịa - Vũng Tàu).

Quy hoạch điện VIII cũng xác định đến năm 2030 sẽ xây mới 13 nhà máy điện khí LNG, đến năm 2035 có thêm hai nhà máy. Việc xác định địa điểm xây dựng các nhà máy này căn cứ theo nhu cầu, cân đối nội vùng ở khu vực phía Bắc, Bắc Trung Bộ và phía Nam.

Tuy nhiên, quá trình lập và thẩm duyệt báo cáo nghiên cứu các dự án, chủ đầu tư phải đảm bảo tính khả thi về khả năng nhập, tồn chứa, tái hóa LNG và vận chuyển cung cấp cho nhà máy điện khí LNG… Hơn nữa, hiện nay chưa có chính sách, cơ chế để khuyến khích đầu tư các cụm, trung tâm năng lượng, kho cảng LNG trung tâm (LNG Hub).

Điều này dẫn đến việc các nhà đầu tư nhà máy điện khí LNG sẽ đầu tư kho cảng nhập LNG riêng lẻ, phân tán theo cấu hình: “một trung tâm điện lực (nhà máy điện) + một kho cảng nhập LNG và tái hóa khí”. Đồng nghĩa với việc có bao nhiêu nhà máy điện thì sẽ xuất hiện bấy nhiêu kho cảng nhập LNG và tái hóa khí xuất hiện phủ kín dọc theo suốt chiều dài bờ biển Việt Nam.

Việc phát triển riêng lẻ các kho cảng LNG với quy mô công suất nhỏ đi kèm với từng nhà máy điện khí sẽ không tận dụng được các cơ sở hạ tầng hiện hữu để giảm chi phí đầu tư bổ sung; có thể khiến giá điện cao hơn do phải “gánh” chi phí đầu tư hạ tầng LNG.

Theo lãnh đạo Tổng Công ty Khí Việt Nam (PV GAS), để thúc đẩy sự phát triển bền vững thì hệ thống hạ tầng điện khí LNG của Việt Nam cần được phát triển theo mô hình kho LNG trung tâm (LNG Hub). Nghĩa là, các kho LNG trung tâm công suất lớn cung cấp nguồn khí tái hóa cho các nhà máy nhiệt điện khí, kết nối đồng bộ với hệ thống đường ống trục vận chuyển khí đến các hộ tiêu thụ. Với mô hình này, dự kiến chỉ cần 3 kho LNG Hub: Thị Vải (Bà Rịa-Vũng Tàu), Sơn Mỹ (Bình Thuận) và khu vực phía Bắc/Bắc Trung Bộ.

Hóa giải khó khăn về giá khí

Theo các chuyên gia năng lượng, giá LNG tại Việt Nam được định giá dưới tác động ảnh hưởng bởi 2 yếu tố chính: giá nhập khẩu LNG về đến Việt Nam, chi phí tiếp nhận, tồn trữ, tái hóa, phân phối LNG và giá nhiên liệu cạnh tranh hoặc tổng giá trị cạnh tranh tương đương.

Tại Việt Nam, khí tái hóa từ LNG là nguồn nhiên liệu mới nên việc hỗ trợ quá trình hoàn thiện cơ sở hạ tầng LNG nhập khẩu đầu tiên tại Thị Vải ở Việt Nam sẽ giảm chi phí phân phối, giúp giá LNG có lợi thế cạnh tranh. Bên cạnh đó, nhà quản lý cần có hướng dẫn cụ thể phương pháp xác định giá phát điện từ nguồn LNG cung cấp cho khách hàng điện.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm