Ngày 4-11, ông Trương Hải Long, Chủ tịch UBND tỉnh Gia Lai đã ban hành kế hoạch nâng cao chỉ số chuyển đổi số (DTI) của tỉnh năm 2023 và các năm tiếp theo. Qua đó nhằm cải thiện, nâng cao điểm số, thứ hạng so với nhiều địa phương khác trên cả nước.
Theo tỉnh Gia Lai, kế hoạch này sẽ giúp các ngành, địa phương trên địa bàn tỉnh xác định được các điểm mạnh cần phát huy, những tồn tại, hạn chế cần khắc phục. Nhờ đó góp phần thực hiện, hoàn thành các mục tiêu DTI tỉnh Gia Lai giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030.
Thông qua kế hoạch, tỉnh Gia Lai yêu cầu trong vòng 15 ngày kể từ ngày ban hành kế hoạch, các đơn vị, địa phương xây dựng, ban hành kế hoạch thực hiện chi tiết, đề ra biện pháp cụ thể để nâng cao các chỉ số được phân công chủ trì. Định kỳ hằng quý thực hiện báo cáo, cung cấp đầy đủ số liệu liên quan các chỉ tiêu được giao.
UBND tỉnh giao Ban Chỉ đạo Chuyển đổi số tỉnh Gia Lai và Sở TTTT hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các sở, ban, ngành, UBND huyện, thị xã, thành phố và các đơn vị liên quan thực hiện kế hoạch này. Ban Chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan báo chí, hệ thống thông tin cơ sở thực hiện công tác tuyên truyền sâu rộng về ý nghĩa, vai trò của việc nâng cao chỉ số về DTI.
Đặc biệt, kế hoạch nêu một số nhiệm vụ trọng tâm cần phải tập trung triển khai như: đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án xây dựng chính quyền điện tử tiến tới xây dựng chính quyền số; tiếp tục triển khai các hệ thống thông tin, ứng dụng, dịch vụ đô thị thông minh theo các kế hoạch, đề án được duyệt.
Tỉnh sẽ quan tâm đầu tư, kết hợp các nguồn lực (cơ chế, chính sách, tài chính, nhân lực, vật lực...) để xây dựng và phát triển về hạ tầng số, nền tảng số, dữ liệu số; nâng cao nhận thức và phát triển nhân lực cho DTI.
Trước đó, tháng 7-2023, Bộ TTTT đã công bố bộ chỉ số đánh giá DTI của các bộ, tỉnh, thành phố năm 2022 với chín chỉ số chính và 98 chỉ số thành phần. Gia Lai xếp hạng 62/63 tỉnh, thành phố trên cả nước (giảm 23 bậc so với năm 2021).
Cụ thể, các chỉ số chính, gồm: nhận thức số (hạng 62/63), thể chế số (63/63), hạ tầng số (34/63), nhân lực số (61/63), an toàn thông tin mạng (34/63), hoạt động chính quyền số (58/63), hoạt động kinh tế số (60/63) và hoạt động xã hội số (62/63).