Tuần này đánh dấu một sự kiện trọng đại đối với ASEAN và Australia khi Australia chào đón lãnh đạo các nước ASEAN nhân kỷ niệm 50 năm quan hệ đối thoại ASEAN-Australia. Australia là một đối tác quan trọng của Việt Nam cũng như các thị trường khác trong khu vực.
Ngay trong ngày hôm nay, bà Yun Liu, chuyên gia kinh tế phụ trách thị trường ASEAN, Bộ phận Nghiên cứu Toàn cầu ngân hàng HSBC và ông Jamie Culling, chuyên gia kinh tế phụ trách thị trường Australia, New Zealand và lĩnh vực hàng hóa nguyên liệu thô toán cầu, Bộ phận Nghiên cứu Toàn cầu ngân hàng HSBC đã đưa ra một số nhận định về tiềm năng của quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam – Australia.
Sau khi Việt Nam nâng cấp quan hệ ngoại giao với Mỹ và Nhật Bản lên "đối tác chiến lược toàn diện"; trong năm 2023, Australia là đối tác chiến lược toàn diện tiếp theo của Việt Nam khi mà cả hai quốc gia đã liên tục thể hiện ý định này. Việc quan hệ ngoại giao Việt Nam – Australia được nâng cấp tạo nền móng cho sự hợp tác sâu rộng hơn sau này.
Quan hệ kinh tế song phương giữa hai quốc gia đã phát triển qua nhiều năm. Việt Nam là đối tác quan trọng thứ nhì ở ASEAN trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa, đặc biệt là thị trường bông sợi lớn nhất của Australia.
Bên cạnh quan hệ thương mại, Australia là một nhà đầu tư ngày càng quan trọng của Việt Nam trong lĩnh vực khai khoáng và là một nhà xuất khẩu dịch vụ quan trọng, đáng chú ý là giáo dục bậc cao. Các hình thái hợp tác khác trong du lịch và hỗ trợ phát triển cũng có tiềm năng lớn.
Việt Nam – Australia: Nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược toàn diện là thành quả của hợp tác sâu rộng nhiều năm
2023 là một năm diễn ra nhiều hoạt động ngoại giao cấp cao của Việt Nam, trong đó, Việt Nam nâng cấp quan hệ ngoại giao với cả Mỹ lẫn Nhật Bản lên tầm "đối tác chiến lược toàn diện". Sau khi ký kết thỏa thuận nâng cấp Hiệp định thành lập Khu vực thương mại tự do ASEAN-Australia-New Zealand (ASEAN-Australia-New Zealand Free Trade Area gọi tắt là AANZFTA) vào tháng 8/2023 và kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, Australia dự kiến sẽ là đối tác chiến lược toàn diện tiếp theo của Việt Nam.
Thực tế, chính phủ hai nước đã liên tục công bố ý định phát triển quan hệ lên tầm cao mới. Tuần này, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính có chuyến thăm chính thức Australia, đồng thời tham dự hội nghị cấp cao đặc biệt kỷ niệm 50 năm quan hệ đối thoại ASEAN – Australia cùng với lãnh đạo các nước ASEAN khác.
Lĩnh vực thương mại hai nước chứng kiến sự tăng trưởng mạnh. Thương mại song phương đã bùng nổ trong một thập kỷ qua, tăng hơn gấp đôi lên 13,8 tỷ USD trong năm 2023. Mặc dù vậy, một phần gia tăng trong giá trị thương mại kể từ đại dịch đến từ giá hàng hóa nguyên liệu thô thế giới tăng cao. Cụ thể, hai mặt hàng tăng nhiều nhất là than đá và bông sợi.
Việt Nam hiện đang là thị trường xuất khẩu bông sợi đơn lẻ lớn nhất của Australia, chiếm 40% tổng kim ngạch xuất khẩu bông sợi của nước này, gấp đôi thị phần năm 2020 (Biểu đồ 2). Tương tự, Australia chiếm gần 40% kim ngạch nhập khẩu bông sợi của Việt Nam. Mặc dù xét về tỷ trọng trong tổng xuất khẩu (15%), ngành dệt may của Việt Nam đã chứng kiến thị phần sụt giảm trong những năm gần đây trong khi hàng điện tử lại tăng lên 35%, đây vẫn được coi là một thuận lợi đối với các nhà xuất khẩu bông sợi Australia.
Mặc dù vậy, sự bùng nổ trong thương mại không chỉ diễn ra trong lĩnh vực sản xuất. Sự gia tăng lớn trong chi tiêu tùy ý hộ gia đình cũng đã kích thích nhu cầu đối với một số mặt hàng xuất khẩu từ Australia. Cụ thể, xuất khẩu thịt bò của Australia đã bùng nổ nhờ xóa bỏ nhiều dòng thuế theo hiệp định AANZFTA trong năm 2018 (Biểu đồ 4).
Tiềm năng tiêu thụ thịt bò của Việt Nam được dự báo sẽ cao hơn nữa. Theo OECD-FAO, đến năm 2030, lượng tiêu thụ thịt bò trên đầu người của Việt Nam được dự báo sẽ cao nhất trong ASEAN, mở ra cơ hội tăng cường các dòng chảy thương mại.
Xuất khẩu của Việt Nam sang Australia cũng đang gia tăng. Nông sản là mặt hàng đang dẫn đầu, trong đó các loại hạt và thủy sản chiếm phần lớn (Biểu đồ 6). Hạt điều nhập khẩu vào Australia phần lớn đến từ Việt Nam theo dữ liệu của ITC. Nhằm tận dụng hơn nữa các hiệp định thương mại giữa hai quốc gia như AANFTA, CPTPP và RCEP, điều quan trọng không kém là Việt Nam phải nâng cao kiểm soát chất lượng đối với xuất khẩu nông sản, đặc biệt trong bối cảnh tiêu chuẩn chất lượng và quy định của Australia ngặt nghèo hơn cả Mỹ và EU trong một số mảng.
Hiện tại, chỉ có bốn loại trái cây tươi được tiếp cận thị trường Australia gồm xoài, thanh long, vải và nhãn nhưng đó cũng là dấu hiệu cho thấy còn nhiều cơ hội lớn để mở rộng thị trường.
Xuất khẩu hàng hóa không chỉ là lĩnh vực duy nhất có nhiều cơ hội tiềm năng, dịch vụ cũng là một lĩnh vực để mở rộng, mặc dù tốc độ còn chậm. Năm ngoái, ASEAN đón 4 triệu khách du lịch từ Australia nhưng chưa tới 10% trong số này đến Việt Nam (Biểu đồ 7).
Một phần nguyên nhân có thể liên quan đến thị thực vì Australia không được miễn thị thực và vẫn tồn tại tình trạng hạn chế số lượng chuyến bay. Điểm đáng khích lệ là Việt Nam đang xem xét mở rộng danh sách miễn thị thực cũng như giới thiệu đường bay mới. Đây đều là những sáng kiến quan trọng vì du khách Australia thường có khuynh hướng nghỉ dài ngày và chi tiêu trong các kỳ nghỉ.
Hợp tác Việt Nam – Australia gia tăng trong lĩnh vực khai mỏ, đầu tư
Trong lĩnh vực đầu tư, Việt Nam có trữ lượng đất hiếm lớn thứ hai thế giới mà phần lớn chưa được khai thác. Các doanh nghiệp Australia có chuyên môn trong ngành khai thác mỏ và chế biến cũng đang tìm cách nắm bắt cơ hội này, với dòng vốn FDI ổn định đổ vào ngành này ở ASEAN nói chung. Riêng đối với Việt Nam, một ví dụ minh họa chính là Blackstone Minerals, doanh nghiệp đang có hai cơ sở ở tỉnh Sơn La, một dự án thăm dò khai thác và một dự án chế biến sâu về nickel.
Bên cạnh các khoáng sản quan trọng, vai trò của Australia như một nhà cung cấp năng lượng chính cho Việt Nam tạo cho quốc gia này một vị thế chiến lược có thể giúp thúc đẩy tiến trình chuyển dịch năng lượng của Việt Nam. Theo đó, chính phủ Australia đã cam kết cung cấp khoản hỗ trợ trị giá 105 triệu đô-la Úc cho Việt Nam trong lĩnh vực này.
Ngoài thương mại và FDI, các hình thái hợp tác khác cũng quan trọng không kém. Trong khi Indonesia từ lâu vẫn là quốc gia chính tiếp nhận nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), Việt Nam cũng chứng kiến dòng vốn hỗ trợ phát triển ổn định (Biểu đồ 9). Trong khi đó, lĩnh vực nguồn nhân lực cũng có liên kết chặt chẽ.
Australia từ lâu đã tạo dựng một cột mốc về giáo dục khi thành lập trường đại học quốc tế có vốn đầu tư nước ngoài đầu tiên ở Việt Nam (Đại học RMIT) từ năm 2000. Trong khuôn khổ cam kết đối với Việt Nam, Học viện Công nghệ Hoàng gia Melbourne (Royal Melbourne Institute of Technology gọi tắt là RMIT) tại Việt Nam đã tiếp nhận thêm khoản đầu tư trị giá 250 triệu đô-la Úc năm ngoái, góp phần khai trương Trung tâm Đổi mới sáng tạo nhằm hỗ trợ nâng cao kỹ năng cho lực lượng lao động.
Trong nhiều năm qua, Australia đã đóng một vai trò trong câu chuyện tăng trưởng của Việt Nam. Trong tương lai, những cơ hội xuất phát từ nhu cầu mới sẽ là nền tảng cho một trang mới trong quan hệ Việt Nam – Australia.