Hai vụ án dưới đây là minh chứng cho việc mỗi tòa hiểu và xử một kiểu khác nhau trước tình tiết người phạm tội ra đầu thú.
Tòa khoan hồng
Tháng 4-1999, Phan Thanh Tùng cùng đồng phạm vào Quảng Trị mua hơn 200 kg thuốc nổ rồi vận chuyển về Quảng Ngãi thì bị Công an Quảng Trị phát hiện, bắt giữ. Lợi dụng đêm tối, Tùng bỏ trốn, đón xe vào nhà cô ruột ở tỉnh Đồng Nai. Năm 2002, Tùng theo đường bộ trốn sang Campuchia, rồi tiếp tục trốn sang Thái Lan, cuối cùng sang Anh kiếm việc làm.
Sau hơn 10 năm trốn lệnh truy nã, tháng 7-2009, Tùng về nước, đến Công an tỉnh Quảng Trị đầu thú. Tháng 12-2009, xử sơ thẩm, TAND tỉnh này đã phạt Tùng 24 tháng tù treo về tội mua bán trái phép vật liệu nổ.
Theo tòa, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo. Đặc biệt, Tùng đã trốn ra nước ngoài, sống lưu vong cả gần chục năm nhưng tự nguyện ra đầu thú với cơ quan chức năng nên tòa xem đây là một tình tiết giảm nhẹ, cho bị cáo được hưởng án treo để thể hiện sự khoan hồng của nhà nước.
Thời gian qua, các toà xử khác nhau khi bị cáo có dấu hiệu tự thú và đầu thú. Ảnh minh hoạ HTD
Tòa không xét
Ngược lại, trong một vụ có tính chất tương tự mới đây, cả đại diện VKS lẫn tòa đều không chấp nhận tình tiết đầu thú là một tình tiết giảm nhẹ của bị cáo.
Trình Văn Huấn và nạn nhân C. đều cùng quê ở Thanh Hóa, vào TP.HCM làm thuê. Tối 26-10-2002, anh C. và bạn sang phòng Huấn xin khất món nợ 300.000 đồng. Hai bên cãi vã, anh C. đá vào hông của Huấn nhưng được mọi người can ngăn nên bỏ về. Trưa hôm sau, anh C. lại tiếp tục cùng hai người bạn qua phòng Huấn gây sự. Anh C. xông vào đánh Huấn nhưng được can ngăn nên bỏ đi. Khoảng 15 phút sau, anh C. quay lại với con dao trên tay. Bị anh C. đâm, Huấn chụp cây gỗ đánh lại trúng một phát vào đầu anh C. rồi bỏ chạy ra khỏi phòng. Sau đó, anh C. được mọi người đưa vào bệnh viện nhưng tử vong do chấn thương sọ não.
Huấn bỏ trốn sang Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Singapore sinh sống, đến ngày 1-4-2009 thì ra Công an TP.HCM đầu thú. Xử sơ thẩm, TAND TP đã phạt Huấn bảy năm tù.
Tại phiên phúc thẩm ngày 18-3-2010 của Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM, luật sư của Huấn đã đề nghị tòa xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt vì thân chủ có ý thức ra đầu thú. Tuy nhiên, đại diện VKS không đồng ý, lập luận: Huấn bỏ trốn qua nhiều nước, sau hơn sáu năm mới chịu ra đầu thú là quá muộn và đề nghị tòa không xem khoan hồng đối với việc ra đầu thú của Huấn. Đồng tình, tòa đã chấp thuận lời đề nghị của đại diện VKS và y án sơ thẩm đối với Huấn.
Chưa luật hóa
BLHS chỉ quy định người phạm tội ra tự thú là tình tiết giảm nhẹ (điểm o khoản 1 Điều 46 BLHS), còn về trường hợp đầu thú thì lại không đề cập.
Ngày 2-6-1990, Bộ Nội vụ, TAND Tối cao, VKSND Tối cao, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư liên ngành 05 hướng dẫn việc xác định và áp dụng tình tiết người phạm tội tự thú. Thông tư này không đề cập đến trường hợp đầu thú. Vì vậy sau đó, trong quá trình áp dụng, gặp trường hợp người phạm tội ra đầu thú, các tòa thường “đồng nhất”, coi đó là trường hợp người phạm tội ra tự thú theo điểm o khoản 1 Điều 46 BLHS.
Nhận thấy nếu mọi trường hợp người phạm tội tự thú và đầu thú đều được áp dụng khoản 1 Điều 46 BLHS là không thỏa đáng, chánh án TAND Tối cao đã ban hành Công văn 81 ngày 10-6-2002. Theo công văn, các tòa chỉ áp dụng khoản 1 Điều 46 BLHS đối với tình tiết người phạm tội tự thú, còn tình tiết người phạm tội đầu thú chỉ được áp dụng theo khoản 2 Điều 46 BLHS.
Vì TAND Tối cao xác định như vậy nên các tòa có quyền tự quyết định trường hợp người phạm tội đầu thú có phải là tình tiết giảm nhẹ hay không (theo khoản 2 Điều 46 BLHS, tòa có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ nhưng phải ghi rõ trong bản án). Từ đó mới xảy ra chuyện tòa này chấp nhận, tòa kia không.
Mặt khác, có thẩm phán coi Công văn 81 là văn bản chính thức của TAND Tối cao nên làm đúng hướng dẫn. Ngược lại, một số thẩm phán quan niệm Công văn 81 chưa phải là văn bản pháp quy, không bắt buộc phải chấp hành nên vẫn “đồng nhất” đầu thú với tự thú và áp dụng điểm o khoản 1 Điều 46 BLHS.
Hiện nay, việc người phạm tội ra đầu thú sau một thời gian lẩn trốn xảy ra không ít nên nhiều chuyên gia đã đề nghị các cơ quan chức năng cần sớm ngồi lại xem xét, ban hành văn bản pháp quy phân biệt rõ tự thú và đầu thú cùng chính sách áp dụng cụ thể.
Phân biệt giữa tự thú và đầu thú Tự thú là tự mình nhận tội và khai ra hành vi phạm tội của mình trong khi chưa ai phát hiện được mình phạm tội. Người nào bị bắt, bị phát hiện về một hành vi phạm tội cụ thể nhưng trong quá trình điều tra tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội khác của mình mà chưa bị phát hiện thì cũng được coi là tự thú đối với việc tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội của mình mà chưa bị phát hiện. Đầu thú là có người đã biết hành vi phạm tội của người phạm tội, biết không thể trốn tránh được nên người phạm tội đến cơ quan có thẩm quyền trình diện. Nếu là đầu thú thì chỉ được áp dụng khoản 2 Điều 46 BLHS để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội. (Theo Sổ tay thẩm phán TAND Tối cao, nguồn: www.toaan.gov.vn) Trước mắt nên ban hành nghị quyết Thời gian qua, khi giải quyết một vụ án hình sự có dấu hiệu người phạm tội tự thú và đầu thú, các tòa hiểu và áp dụng rất khác nhau. Điều này cho thấy tình tiết người phạm tội tự thú và đầu thú có một ý nghĩa rất quan trọng để các cơ quan tố tụng áp dụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Đây là vấn đề tuy không lớn nhưng có sự khác nhau giữa tòa cấp sơ thẩm và tòa cấp phúc thẩm về việc xác định và áp dụng tình tiết quy định tại điểm o khoản 1 Điều 46 BLHS. Ví dụ: Tòa sơ thẩm phạt tù giam đối với bị cáo vì xác định bị cáo chỉ đầu thú nhưng tòa phúc thẩm xác định bị cáo tự thú nên cho bị cáo được hưởng án treo hoặc giảm hình phạt đáng kể. Sau đó, tòa sơ thẩm không đồng tình, kiến nghị TAND Tối cao xét lại bản án phúc thẩm… Để bảo đảm tính pháp lý, đề nghị các cơ quan chức năng nên có một thông tư liên tịch hướng dẫn phân biệt cụ thể hai hành vi tự thú và đầu thú là hoàn toàn khác nhau theo như tinh thần của Công văn 81. Trước mắt, Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao nên ban hành nghị quyết hướng dẫn để có giá trị pháp lý cao hơn công văn. Thẩm phán ĐINH VĂN QUẾ, Chánh Tòa Hình sự TAND Tối cao Pháp luật phải áp dụng thống nhất Pháp luật phải được hiểu và áp dụng thống nhất, đó là một nguyên tắc bắt buộc. Thật vô lý và bất công nếu như cùng ra đầu thú nhưng bị cáo này được giảm nhẹ còn bị cáo kia lại không. Cũng thật vô lý và bất công nếu như bị cáo này được giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 46 BLHS, từ đó có thể được xử dưới khung hoặc chuyển sang hình phạt khác nhẹ hơn trong khi bị cáo kia chỉ được giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 46 BLHS. Cạnh đó, Công văn 81 của chánh án TAND Tối cao đã hướng dẫn phân biệt về tình tiết tự thú, đầu thú nhưng vì chưa phải là văn bản pháp quy nên một số thẩm phán vẫn “đánh tráo khái niệm”. Vì vậy, việc ban hành văn bản pháp quy về vấn đề này là rất cần thiết. Luật sư NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH, Đoàn Luật sư TP.HCM |
HỒNG TÚ