Ngày 12-5, TAND TP Đà Nẵng mở phiên phúc thẩm bị cáo Hà Học Lộc (SN 1998, trú tại huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh) về tội hiếp dâm theo điểm d khoản 2 Điều 141 BLHS. Người bị hại là chị VTTT (SN 1994, trú quận Hải Châu, TP Đà Nẵng).
Tuy nhiên, HĐXX đã phải cho hoãn phiên tòa do người bị hại thay đổi chỗ ở không thông báo nên tòa chưa gửi được giấy triệu tập đến phiên xử.
Trước đó, tại phiên sơ thẩm, TAND quận Thanh Khê đã tuyên phạt bị cáo Lộc bảy năm tù vì tội danh trên. Đáng chú ý, bị cáo Lộc kêu oan và cho rằng VKS truy tố bị cáo tội hiếp dâm là không đúng sự thật.
VKSND quận Thanh Khê, Đà Nẵng. Ảnh: T.AN
Theo bản án sơ thẩm, khoảng giữa tháng 3-2019, Lộc và chị T. quen nhau qua Zalo và thường xuyên nhắn tin nói chuyện qua lại. Khoảng 18 giờ ngày 1-4-2019, Lộc và chị T. rủ nhau đi xem phim rồi đi ăn. Trên đường đi tìm quán ăn, Lộc nói với chị T. là điện thoại hết pin nên về phòng trọ của Lộc để sạc. Đến nơi, Lộc cầm túi xách của chị T. vào phòng, chị T. đứng bên ngoài.
Sau đó, chị T. vào phòng lấy túi xách ra về thì bị Lộc đẩy xuống nệm đòi giao cấu nhưng chị này chống cự quyết liệt. Chị T. đứng dậy cầm túi xách ra về thì Lộc chặn ngang và khóa chốt cửa, sau đó đẩy chị T. xuống nệm, đè lên người đồng thời dùng tay và chân giữ chặt chị T.
Sau khi giao cấu xong, Lộc ôm chặt chị T. và không cho chị này về. Sau khi quan hệ tình dục thêm hai lần nữa, Lộc gọi grab cho chị T. về.
Khoảng hơn 11 giờ ngày 2-4-2019, chị T. đến Công an phường Xuân Hà (quận Thanh Khê) trình báo sự việc và có đơn yêu cầu khởi tố hình sự đối với Lộc ngay sau đó.
Tại phiên sơ thẩm, Lộc không đồng ý với cáo trạng của VKSND quận Thanh Khê truy tố bị cáo về tội hiếp dâm. Lộc cho rằng bị cáo và chị T. có mối quan hệ yêu đương, sau khi xem phim xong, chị T. là người chủ động lên giường của bị cáo dẫn đến việc cả hai tự nguyện quan hệ tình dục.
Trong khi quan hệ, chị T. đều nằm im, đồng thuận và không có phản ứng gì. Sau đó, chị T. yêu cầu bị cáo gọi điện thoại về báo với gia đình chuyện cưới hỏi nhưng bị cáo không đồng ý, hẹn sang năm bị cáo có công ăn việc làm ổn định rồi cưới. Chị T. cho rằng mình bị lừa dối nên đã tố cáo bị cáo.
Trong khi đó, bị hại T. nói rằng cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người đúng tội và lời khai của Lộc tại tòa là giả dối, bịa đặt.
Luật sư (LS) bào chữa cho bị cáo cho rằng quá trình điều tra chưa thu thập đầy đủ chứng cứ mà chỉ dựa vào lời khai của bị hại để định tội bị cáo là không khách quan.
Theo LS, Lộc và chị T. thường xuyên nhắn tin, gọi điện thoại nói chuyện, hẹn hò đi chơi với nhau. Những tin nhắn Lộc gửi cho T. đều có nội dung đề cập đến chuyện yêu đương, quan hệ tình dục, có con và dự định làm đám cưới với T. Vì vậy, việc Lộc và chị T. yêu nhau và tình nguyện quan hệ tình dục trong đêm 1-4, rạng sáng 2-4 là không vi phạm pháp luật.
Theo chị T. trình bày, đêm 1-4, khi Lộc quan hệ tình dục trái ý muốn thì chị này có kêu cứu, nhiều lần muốn bỏ trốn nhưng bị Lộc giữ lại. Tuy nhiên, những người sống chung nhà trọ với Lộc đều cho biết họ không nghe thấy bất kỳ tiếng động nào vào thời điểm đó.
Ngoài ra, chị T. trình bày Lộc không đánh đập hay có lời lẽ đe dọa, cũng như không dùng bất cứ thủ đoạn nào để ép buộc chị T. phải quan hệ tình dục với mình...
LS cho rằng quy kết bị cáo phạm tội hiếp dâm trong trường hợp này là không có cơ sở nên đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo không phạm tội, đình chỉ giải quyết vụ án và trả tự do cho bị cáo.
Đại diện VKS cấp sơ thẩm cho rằng tại phiên tòa và trong quá trình điều tra, bị cáo nhiều lần thay đổi lời khai, cố tình đưa ra lý lẽ, lời khai nhằm chối tội và đẩy hoàn toàn lỗi về phía bị hại.
Bị cáo không thành khẩn khai báo, không thể hiện sự ăn năn hối cải để sửa chữa, khắc phục lỗi lầm nên cần một mức án nghiêm khắc mới đủ sức răn đe, phòng ngừa chung. Từ đó, VKS đề nghị xử phạt bị cáo Lộc từ tám đến chín năm tù. Cuối cùng Lộc bị phạt bảy năm tù.