Chúng tôi đã có cuộc trò chuyện thú vị với nhà ngoại giao kỳ cựu Nguyễn Dy Niên, nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao để phần nào vẽ lại chặng đường đã qua và phác thảo kỳ vọng.
Nhưng còn rất nhiều điều phải làm để thật sự 30-4 là ngày chiến thắng của cả dân Việt, dù bất cứ ở đâu.
. Phóng viên: Ðã công tác suốt hơn 50 năm trong ngành ngoại giao (từ năm 1954 khi mới 19 tuổi), chứng kiến nhiều thăng trầm của đất nước và tham gia nhiều cuộc đàm phán quốc tế, ông đánh giá sao về tình hình Việt Nam và bối cảnh quốc tế sau ngày thống nhất đất nước 30-4-1975?
+ Nhà ngoại giao Nguyễn Dy Niên: Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chúng ta bước vào một thời kỳ hòa bình và xây dựng. Nhưng phải nói rằng khúc khải hoàn ngắn quá, bởi ngay sau đó chúng ta lại vướng vào chiến tranh ở biên giới Tây Nam, Pol Pot bắt đầu quấy phá, rồi chiến tranh Campuchia. Ðó là thời kỳ cực kỳ khó khăn, miền Bắc kiệt quệ, xơ xác sau những năm tháng dốc toàn lực cho chiến trường, miền Nam đổ vỡ vì chiến tranh, các vấn đề kinh tế-xã hội đặt ra rất lớn, công việc thì bề bộn. Ðất nước hồi đó khó khăn lắm.
Tuy nhiên, cũng phải nói rằng thời gian sau ngày 30-4-1975 là một cơ hội cực kỳ tốt mà chúng ta chậm khai thác. Hầu như tất cả các nước phương Tây khi ấy đều muốn thiết lập quan hệ với Việt Nam. Mỹ cũng muốn bình thường hóa quan hệ với ta. Bởi vì vị thế của Việt Nam lúc đó là vị thế của người chiến thắng, ngời ngời vinh quang, các nước rất nể trọng, quý mến. Nhưng rất tiếc là chúng ta còn dè dặt - cũng một phần do những ràng buộc của lý luận - nên đã bỏ lỡ, không tận dụng được cơ hội ấy.
Ông Nguyễn Dy Niên
“Giá mà chúng ta khôn khéo hơn”
. Nhưng trong thực tế thuận lợi đó không kéo dài…
+ Ðến lúc ta vướng vào vấn đề Campuchia thì tất cả thuận lợi đó đều mất đi: Trước hết là những người ủng hộ ta bắt đầu hoang mang, không hiểu tại sao một dân tộc đã tự giải phóng mình nay lại đưa quân sang nước khác. Rồi tới những người trước đây đã lưỡng lự, chưa hoàn toàn ủng hộ Việt Nam thì đến lúc này họ quay hẳn sang chống lại chúng ta. Họ đâu biết rằng Việt Nam đang làm một nghĩa vụ quốc tế cực kỳ quan trọng mà không dân tộc nào lúc đó làm được, đâu biết rằng vào Campuchia là Việt Nam phải hy sinh ghê gớm lắm, mất đi sự ủng hộ của thế giới, mất bao xương máu, mất cả nguồn lực kinh tế dồn vào để bảo vệ, giúp đỡ Campuchia. Ðến bây giờ, khi đã hiểu ra tình hình rồi, người ta mới cảm ơn Việt Nam. Chúng ta luôn mong muốn hòa bình nhưng vào giai đoạn ấy, chúng ta bắt buộc phải làm những việc khiến vị thế quốc tế của mình gặp khó khăn.
. Như vậy, có phải tình hình khó khăn mà Việt Nam gặp phải vào những năm sau chiến tranh là không thể tránh khỏi?
Vị thế của Việt Nam lúc đó là vị thế của người chiến thắng, ngời ngời vinh quang, các nước rất nể trọng, quý mến. Nhưng rất tiếc là chúng ta còn dè dặt - cũng một phần do những ràng buộc của lý luận - nên đã bỏ lỡ cơ hội ấy. |
Các khu chế xuất, khu công nghiệp tại TP.HCM đang thu hút các nhà đầu tư.
Tôi nhớ năm 2008, tôi sang Ý, gặp một bạn Việt Nam khoảng 40 tuổi, thuộc diện di tản. Cậu ấy kể lại hồi 1975, nhà cậu ấy chỉ sản xuất bút viết thôi nhưng cũng bị cho là bóc lột (vì có thuê người làm công), thế là bị “đánh”. "Ðánh" lần thứ nhất thì gia đình còn cố gắng chịu được nhưng đến lần thứ hai, bị tịch thu hết cả phương tiện sản xuất thì không sống nổi nữa và buộc phải ra đi. Cậu ấy kể lại thảm cảnh của người vượt biên, nghe xót xa lắm. Gia đình dồn hết cả tiền bạc buộc trong mình đứa em mới có ba tuổi. Ra ngoài khơi thì thuyền thủng đáy, phải chuyển sang thuyền khác, chẳng may trong lúc lúng túng, đứa bé rơi xuống biển. Bà mẹ đã định nhảy theo xuống biển tự tử, may mà người ta giữ lại được. Cậu ấy kể: “Bố mẹ cháu hận lắm nhưng dần dần thì cũng nguôi đi”. Tôi hỏi: “Thế bây giờ cháu có hận không?”. “Không, cháu không thù hận nữa. Cháu về nước nhiều lần rồi, lấy vợ Việt Nam rồi” - cậu ấy nói thế.
Ðó, phải nói là ngày ấy mình đã thực hiện những chính sách mà đáng lẽ nếu tỉnh táo hơn, được một phần của Ðổi mới sau này thôi thì Việt Nam đã mạnh lắm, cường thịnh lắm.
Nhà lụp xụp ven kênh TP chủ trương xóa.
Ngày ấy chúng ta đã thực hiện những chính sách mà… đáng lẽ nếu tỉnh táo hơn, được một phần của Ðổi mới hiện nay thôi, thì Việt Nam bây giờ đã mạnh lắm, cường thịnh lắm. |
Ðổi mới: Dấu mốc nổi bật
. Từ năm 1975 đến nay, có những sự kiện nào là mốc nổi bật, có ý nghĩa nhất trong hoạt động ngoại giao của Việt Nam, thưa ông?
+ Sự kiện chính trị lớn nhất là Ðại hội VI của Ðảng đề ra Ðổi mới. Không có Ðổi mới thì đúng là không biết Việt Nam sẽ đi về đâu, thậm chí có tồn tại như ngày nay được không. Tôi nghĩ đó là cái mốc lớn nhất, căn bản nhất. Về đối ngoại thì sự kiện quan trọng sau năm 1975 là tìm được giải pháp cho vấn đề Campuchia, rút quân khỏi Campuchia. Tiếp theo là bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Mỹ.
Đời sống tinh thần và vật chất của người dân được nâng cao.
Sự kiện chính trị lớn nhất sau năm 1975 là Ðổi mới. Không có Ðổi mới thì đúng là không biết Việt Nam sẽ đi về đâu, thậm chí có tồn tại như ngày nay được không. Tôi nghĩ đó là cái mốc lớn nhất, căn bản nhất. |
. Nói riêng về quá trình đàm phán với Mỹ, chúng ta đã trải qua những khó khăn thế nào, thưa ông?
Dẫu sao, mọi chuyện đã thành lịch sử. Một con người còn khó mà hoàn hảo, huống gì là cả một cuộc cách mạng. Nhưng điều quan trọng là phải rút ra bài học để không bao giờ lặp lại những sai lầm ấy nữa. |
ĐOAN TRANG ghi
Kỳ tới: Đã đến thời điểm viết khúc khải hoàn chung
“30-4 là một khúc khải hoàn vĩ đại của dân tộc nhưng 35 năm đã trôi qua rồi. Tôi nghĩ giờ đây chúng ta cần một khúc khải hoàn mà mọi người dân Việt Nam, dù ở bất kỳ nơi đâu, cũng đều có thể ca hát. Đó chính là hòa bình, độc lập và hòa hợp dân tộc để cùng xây dựng đất nước” - nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Dy Niên đặt vấn đề.