Thời kỳ ông Lê Đức Anh làm chủ tịch nước (23-9-1992 – 23-9-1997) là một trong những giai đoạn sôi động và phức tạp nhất của hoạt động ngoại giao nước nhà.
Chủ tịch nước Lê Đức Anh trong một lần tiếp thượng nghị sĩ John Kerry, cựu chiến binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Ảnh: BBC
“Phá vây” ngoại giao
Nếu cố Thủ tướng Võ văn Kiệt nổi lên như một chính khách cải cách, đổi mới trong con mắt của quốc tế, nhất là phương Tây, thì trong “cái mạch ngầm” của công tác “phá vây”, ông Lê Đức Anh đóng một vai trò hết sức quan trọng.
Việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ đưa Việt Nam lên một tầm cao mới trên trường quốc tế là công lao của nhiều tập thể và cá nhân trong Đảng và Nhà nước, nhất là ngành ngoại giao. Tuy nhiên, không thể không nhắc đến vai trò của ông Lê Đức Anh.
Điển hình như trong việc giải quyết tốt vấn đề tù nhân và người Mỹ mất tích (POW/MIA), đây là bước đi cực kỳ quan trọng trong tiến trình Mỹ bỏ cấm vận và bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Tôi có may mắn là trên cương vị phóng viên báo Quân Đội Nhân Dân được chứng kiến cuộc họp của bộ trưởng Quốc phòng thời bấy giờ là ông Đoàn Khuê với thượng nghị sĩ Mỹ John Kerry. Khi ông John Kerry gợi ý với ông Đoàn Khuê về việc cho phái đoàn Mỹ đi thăm những nơi “nhạy cảm” nhất để gỡ bỏ hoài nghi của dư luận Mỹ về việc Việt Nam vẫn còn giấu tù binh Mỹ. Trong vấn đề “nhạy cảm” mà ít ai dám quyết này thì Chủ tịch nước Lê Đức Anh đảm nhận trách nhiệm.
“Tôi đã đích thân dẫn ông John Kerry và ông John McCain đi thăm những nơi mà phía Mỹ nghi là Việt Nam còn giấu tù binh là quân nhân của họ. Những nơi đó rất nhạy cảm. Ông Kerry, ông John McCain được chứng kiến tận nơi các địa điểm đó và xác nhận không hề có chuyện giấu tù binh” - Tướng Lê Đức Anh viết trong hồi ký của mình.
Ông Thomas Vallely, nguyên hạ nghị sĩ bang Massachusett, người bạn thân luôn sát cánh cùng ông John Kerry trong suốt tiến trình vận động bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ, từng khẳng định: “Quyết định của phía Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch nước Lê Đức Anh, cho phép phía Mỹ được đi bất cứ đâu, thậm chí đến những nơi “cực kỳ nhạy cảm”, vào bất cứ thời điểm nào khi có thông tin dù bịa đặt về việc Việt Nam còn giam giữ tù nhân là cực kỳ dũng cảm về mặt chính trị. Nhờ đó, nhóm nghị sĩ Mỹ đã có được bằng chứng xóa bỏ hoàn toàn huyền thoại về POW/MIA, thoát khỏi bóng ma quá khứ về tù nhân chiến tranh”.
Một con người nghĩa khí
Năm 1991, khi còn là phóng viên báo Quân Đội Nhân Dân, trong một chuyến công tác ở miền Đông Nam bộ, tôi được nghe một cựu sĩ quan tác chiến từng tháp tùng Đại tướng trong giai đoạn 1970-1973 kể rằng: “Có trận đánh cơ quan tham mưu cấp trên nhất trí đánh ở hướng này nhưng riêng anh Lê Đức Anh thì không, kiên quyết đón đánh địch ở hướng khác. Có lần tôi hỏi: “Làm thế anh không sợ cấp trên biết sẽ kỷ luật sao?”, anh bảo: “Ai mà chẳng sợ, quân lệnh như sơn mà. Nhưng cậu đừng quên tướng ngoài biên ải có quyền hành động. Đánh địch ở nơi chúng không ngờ mới bớt tổn hao máu xương chiến sĩ. Nói thật với cậu, điều mà tớ sợ nhất là nước mắt của những bà mẹ mất con. Cậu có con trai, tớ cũng có con trai, chúng nó đang ở độ tuổi ăn, tuổi lớn mà lại đi trao vào tay những “vị tướng” nướng quân thì đau xót lắm”. Vị cựu sĩ quan tác chiến kết luận: “Anh Lê Đức Anh là một vị tướng trí dũng song toàn nhưng trên hết, anh là một người nghĩa khí”.
Với vai trò của bộ trưởng Quốc phòng rồi Chủ tịch nước, đồng chí Lê Đức Anh cùng với tập thể lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đã có những đóng góp quan trọng. Anh là người có tầm nhìn sâu và rộng trong các vấn đề chiến lược của đất nước. Cố Thủ tướng VÕ VĂN KIỆT viết Giai đoạn tôi làm tổng bí thư, anh Lê Đức Anh làm chủ tịch nước, anh Võ Văn Kiệt làm thủ tướng, anh Đoàn Khuê làm bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Đây là thời kỳ ta triển khai công tác đổi mới rất mạnh mà trọng tâm là đổi mới về kinh tế... Khi anh Lê Đức Anh làm chủ tịch nước thì ta thật sự mở rộng quan hệ với nước ngoài. Cố Tổng Bí thư ĐỖ MƯỜI viết |
Ai cũng biết một trong những việc lớn thử thách bản lĩnh của ông ở cương vị bộ trưởng Quốc phòng là giảm một nửa số quân nhân tại chức để giảm nguồn chi cho quốc phòng.
Về vấn đề này, có lần ông kể: “Lúc làm tổng tham mưu trưởng rồi bộ trưởng Bộ Quốc phòng, tôi đã nhận thấy bộ máy của mình rất cồng kềnh. Có lần nói chuyện với anh Lê Đức Thọ (lúc ấy là ủy viên Bộ Chính trị, trưởng Ban Tổ chức Trung ương), anh nói sẽ cho tôi bốn thứ trưởng. Tôi nói: “Nếu cho tôi đến bốn phó thì bộ trưởng làm gì?”. Sau đó anh nói lại cho tôi hai thứ trưởng, tôi nói tôi chỉ cần một phó. Cấp trưởng phải làm tất cả các việc của bộ, cấp phó chỉ là người giúp việc cho bộ trưởng. Thời đó, quân đội được tổ chức sắp xếp lại biên chế, giảm một triệu quân nhưng vẫn sẵn sàng chiến đấu lâu dài bảo vệ Tổ quốc. Tôi xử lý vấn đề này rất dứt khoát”.
Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng kể lại rằng: “Có một kỷ niệm khó quên có phần riêng tư giữa tôi và anh Sáu Nam (tên gọi thân mật của ông Lê Đức Anh). Năm 1972, đó là lúc động viên thanh niên vào quân chủ lực của khu. Võ Dũng, con trai lớn của tôi, từ miền Bắc xin được về cùng tôi xuống khu 9. Dũng đang công tác trong lực lượng bảo vệ, cũng hưởng ứng và tha thiết xin ra chủ lực khu, tôi chấp thuận. Sau đó, anh Sáu Nam được tin, anh ra lệnh hỏa tốc cho Trung đoàn đưa cháu về ngay Quân khu bộ (ý định cho Võ Dũng học pháo binh). Nhưng lệnh đến đơn vị thì cháu Dũng đã hy sinh trong một trận chiến đấu. Anh gửi thư chia buồn và cứ trách tôi mãi là không cho anh biết trước”.
Cuộc đời bình dị Tháng 4-2001, tướng Lê Đức Anh chính thức nghỉ hưu. Ông bà ở trên tầng hai của khu nhà quân đội tại số 5 đường Hoàng Diệu. Căn phòng hết sức đơn sơ, mang dáng dấp của một sĩ quan quân đội thời chiến. Bà bảo ông dậy vào lúc 6 giờ sáng, tập luyện một tiếng đồng hồ, 7 giờ ăn sáng. Bữa cơm trưa và chiều đều đặn một ly rượu nhẹ, thức ăn không nhiều thịt mà chủ yếu là cá và rau. Món ông thích nhất là cá kho kiểu Huế. Hầu như rất ít khi ông đi ngủ sau 9 giờ tối và thường là “ngủ rất ngon, rất thanh thản”. Tất nhiên, với một người đã từng giữ nhiều trọng trách và chưa lúc nào thôi quan tâm đến đất nước như ông, rèn luyện được điều đó cũng là một kỳ tích. |