Chiều 12-6, tại phiên họp thứ 34, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cảnh vệ.
Có cơ chế chủ động cho cảnh vệ
Báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Lê Tấn Tới cho hay dự thảo luật bổ sung quy định thuê lực lượng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật để thực hiện công tác cảnh vệ.
Theo đó, tư lệnh Bộ Tư lệnh Cảnh vệ có quyền quyết định thuê lực lượng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật để bảo vệ đối tượng cảnh vệ là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng khi đi công tác nước ngoài.
Điều này được áp dụng trong trường hợp đã sử dụng tất cả nguồn nhân lực và phương tiện, thiết bị mang theo mà không đáp ứng được công tác cảnh vệ. Cục trưởng Cục Bảo vệ an ninh quân đội cũng có quyền tương tự như trên.
“Đây là vấn đề còn có ý kiến khác nhau khi Quốc hội thảo luận tại tổ và hội trường về dự thảo luật tại đợt 1, kỳ họp thứ bảy” - ông Tới nói và cho biết nhiều ý kiến nhất trí với quy định của dự thảo luật.
Tuy nhiên, có ý kiến đề nghị quy định thuê trong trường hợp bất khả kháng; quy định cụ thể tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình, nguồn kinh phí chi trả, bồi thường thiệt hại nếu có.
Ý kiến khác đề nghị giao Chính phủ hoặc Bộ Tài chính quy định chi tiết về tiêu chuẩn và chế độ chi tiêu, định mức, thanh toán, quyết toán về thuê lực lượng, phương tiện ở nước ngoài; làm rõ thuê lực lượng, phương tiện trong nước hay của nước ngoài và ưu tiên thuê trong nước...
Về vấn đề này, Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh cho rằng thực tiễn thực hiện công tác cảnh vệ với lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước khi đi công tác nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn, nhất là các điều kiện về lực lượng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật. Nguyên nhân chủ yếu do có sự khác nhau về thể chế chính trị, quy định chế độ, biện pháp cảnh vệ, quy định quản lý, sử dụng vũ khí…
“Cần phải có cơ chế cho cảnh vệ chủ động thuê lực lượng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật của nước ngoài, không phải trong nước trong trường hợp bất khả kháng” - ông Lê Tấn Tới nói và khẳng định việc này chỉ thực hiện khi đã sử dụng tất cả nguồn nhân lực, phương tiện, thiết bị kỹ thuật mang theo mà không đáp ứng được yêu cầu của công tác cảnh vệ.
Đảm bảo tính chủ động, linh hoạt
Theo chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh, dự thảo luật bổ sung quy định tư lệnh Bộ Tư lệnh Cảnh vệ, cục trưởng Cục Bảo vệ an ninh quân đội có quyền quyết định thuê lực lượng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật để bảo vệ đối tượng cảnh vệ khi đi công tác nước ngoài là phù hợp. Điều này cũng giúp bảo đảm tính chủ động, linh hoạt, kịp thời, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra đối với công tác cảnh vệ.
Nguồn kinh phí để thuê lực lượng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật của nước ngoài là ngân sách nhà nước. Tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình, định mức, thanh toán, quyết toán việc thuê lực lượng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật phải căn cứ vào pháp luật của nước sở tại và pháp luật của Việt Nam, trong đó có pháp luật về ngân sách nhà nước, pháp luật về quản lý tài sản công.
Dẫn quy định tại Điều 32 của Luật Quản lý tài sản công, ông Lê Tấn Tới cho biết thực tiễn khi các lãnh đạo chủ chốt đi công tác tại nước ngoài thì bốn Văn phòng Trung ương chủ trì thực hiện việc thuê, thực hiện thủ tục thanh quyết toán tiền thuê lực lượng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ công tác cảnh vệ theo quy định của pháp luật, không phát sinh khó khăn, bất cập.
Do đó, dự thảo luật này không quy định cụ thể về tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình, định mức, thanh quyết toán việc thuê lực lượng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật của lực lượng cảnh vệ.
Nêu ý kiến sau đó, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Vũ Hải Hà, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Bùi Văn Cường đều bày tỏ sự thống nhất với quy định tại dự thảo.
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định đề nghị cách thể hiện trong dự thảo phải bảo đảm khả thi, dễ thực hiện trên thực tế. Theo ông Nguyễn Khắc Định, việc thuê lực lượng, phương tiện, trang thiết bị kỹ thuật chỉ thực hiện trong trường hợp “tứ trụ” đi công tác nước ngoài, thông thường trường hợp này đoàn chỉ có một phó tư lệnh đi cùng.
“Nếu thuê thì phó tư lệnh quyết định, còn nếu quy định tư lệnh quyết định thì không biết quyết thế nào” - ông Nguyễn Khắc Định nói.
Khi nào bộ trưởng Bộ Công an quyết định áp dụng biện pháp cảnh vệ?
Một nội dung đáng chú ý khác, dự thảo quy định trong trường hợp cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm công tác đối ngoại, bộ trưởng Bộ Công an quyết định áp dụng biện pháp cảnh vệ phù hợp đối với đối tượng không thuộc đối tượng quy định của Luật Cảnh vệ.
Quy định trên hiện vẫn còn có ý kiến khác nhau. Cụ thể, một số ý kiến nhất trí quy định như dự thảo luật; một số ý kiến đề nghị làm rõ tiêu chí, trường hợp cấp thiết ngay trong luật.
Ý kiến khác đề nghị đánh giá sự tương thích về thẩm quyền của bộ trưởng Bộ Công an với quy định của hiến pháp. Cũng có ý kiến đề nghị quy định nội dung này trong nghị định của Chính phủ.
Về nội dung này, ông Lê Tấn Tới nêu ý kiến của Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh cho rằng theo quy định của pháp luật, bộ trưởng Bộ Công an có thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp nghiệp vụ, bao gồm cả biện pháp cảnh vệ để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Do đó, việc dự thảo luật bổ sung quy định bộ trưởng Bộ Công an quyết định áp dụng biện pháp cảnh vệ đối với trường hợp không thuộc đối tượng cảnh vệ là phù hợp với thẩm quyền của bộ trưởng Bộ Công an. Đồng thời, cụ thể hóa quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013, đáp ứng yêu cầu công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và công tác cảnh vệ.
“Do việc quyết định áp dụng các biện pháp cảnh vệ có liên quan đến việc hạn chế quyền con người, quyền công dân nên cần phải được quy định trong luật” - ông Lê Tấn Tới nói.
Đề nghị không bổ sung thẩm quyền của Bộ Quốc phòng
Về ý kiến đề nghị quy định thẩm quyền của bộ trưởng Bộ Quốc phòng được áp dụng biện pháp cảnh vệ trong trường hợp không thuộc đối tượng cảnh vệ, Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh cho rằng theo quy định của Luật Cảnh vệ hiện hành, Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác cảnh vệ.
Còn Bộ Quốc phòng có trách nhiệm bảo đảm an toàn tuyệt đối cho đối tượng cảnh vệ do quân đội đảm nhiệm.
Theo ông Lê Tấn Tới, việc này đều thuộc trách nhiệm của Bộ Công an, trong trường hợp cần thiết thì phối hợp với Bộ Quốc phòng, các bộ, ngành khác để thực hiện công tác cảnh vệ. Do đó, đề nghị không bổ sung nội dung này vào dự thảo luật.