Bà Manuela Tomei, Vụ trưởng Vụ Điều kiện làm việc và Bình đẳng của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), đã nhấn mạnh như vậy trong báo cáo mới nhất của ILO về Lao động di cư ra nước ngoài. “Đại dịch đã làm lộ rõ tình trạng bấp bênh của họ. Lao động di cư thường là đối tượng đầu tiên bị cho nghỉ việc, họ gặp khó khăn trong việc tiếp cận để được chữa trị và họ thường không được đưa vào diện điều chỉnh của các chính sách ứng phó với đại dịch COVID-19”, bà Manuela Tomei bình luận.
Theo ước tính mới nhất của ILO, số người lao động di cư ra nước ngoài trên toàn cầu đã lên đến 169 triệu người, tăng 3% kể từ năm 2017.
Trong đó, tỉ lệ lao động di cư trẻ tuổi (15-24 tuổi) tăng gần 2%, tương đương 3,2 triệu người, kể từ năm 2017, đạt mức 16,8 triệu người vào năm 2019.
Thực tập sinh Việt Nam làm việc tại Nhật Bản có thu nhập ổn định nhờ tay kỹ năng làm việc tốt. Ảnh: PHONG ĐIỀN
Riêng năm 2019, lao động di cư ra nước ngoài chiếm gần 5% lực lượng lao động toàn cầu, khiến họ trở thành một phần không thể tách rời của nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, nhiều lao động di cư vẫn thường phải làm những công việc tạm thời, phi chính thức và không được bảo vệ, khiến gia tăng nguy cơ rơi vào tình trạng không ổn định, bị sa thải và sa sút về điều kiện làm việc.
Chuyên gia ILO đánh giá, khủng hoảng COVID-19 làm gia tăng những nguy cơ này, đặc biệt là đối với nữ lao động di cư vì họ chiếm số đông trong các công việc bị trả lương thấp, đòi hỏi tay nghề thấp, và họ ít được tiếp cận với các chế độ an sinh xã hội cũng như ít có lựa chọn đối với các dịch vụ hỗ trợ.