Án ma túy: Xử theo hàm lượng đã tách?

Sau khi hoãn xử, trả hồ sơ điều tra bổ sung vào năm 2013, mới đây TAND quận Tân Bình (TP.HCM) lại tiếp tục hoãn xử vụ Chung Chí Thành bị truy tố về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 194 BLHS). Đây là một vụ án từng gây nhiều tranh cãi trong nội bộ các cơ quan tố tụng xung quanh việc Thành có phạm tội hay không.

Mỗi cơ quan một quan điểm

Theo hồ sơ, năm 2012, Thành bị Công an quận Tân Bình bắt quả tang cất giấu trái phép chất ma túy, thu giữ hai vỉ thuốc gồm 11 viên nén tròn màu hồng có logo chữ “M”. Theo kết quả giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự (Công an TP.HCM), 11 viên nén này có trọng lượng hơn 2,7 g có chứa chất ma túy Ketamine.

Trong quá trình giải quyết án ban đầu, giữa cơ quan điều tra (CQĐT) Công an quận Tân Bình và VKS quận đã có quan điểm trái ngược nhau.

Một phiên tòa xử lưu động về án ma túy. Ảnh minh họa: HTD

Theo CQĐT, căn cứ vào mục 1.4 Thông tư liên tịch số 17/2007 của Bộ Công an - VKSND Tối cao - TAND Tối cao - Bộ Tư pháp thì trong mọi trường hợp khi thu giữ được các chất nghi là ma túy… đều phải trưng cầu giám định để xác định loại và hàm lượng. Theo kết quả giám định ban đầu, 11 viên nén thu giữ có tổng trọng lượng hơn 2,7 g có chứa chất ma túy Ketamine. Ketamine nằm trong danh mục III Nghị định 82/2003 của Chính phủ (STT: 35), là chất hướng thần được dùng trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của cơ quan có thẩm quyền.

Do đó, CQĐT đã trưng cầu giám định bổ sung để xác định trọng lượng chính xác của chất ma túy Ketamine trong 11 viên thuốc. Theo kết quả giám định bổ sung tại Viện khoa học hình sự Bộ Công an thì hàm lượng Ketamine trong mỗi viên nén là
18,9%. Như vậy bị can Thành tàng trữ tổng trọng lượng chất ma túy trong 11 viên nén chỉ là khoảng 0,5 g.

Khoản e mục 3.6 phần II Thông tư liên tịch số 17/2007 (về các tội phạm cụ thể) quy định người nào tàng trữ chất ma túy khác ở thể rắn có trọng lượng dưới 1 g thì áp dụng khoản 4 Điều 8 BLHS, theo đó không truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng phải bị xử lý hành chính. Từ đó, CQĐT xác định không khởi tố vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy, tức không khởi tố bị can đối với Thành.

Ngược lại, VKS quận Tân Bình cho rằng Thông tư liên tịch số 17/2007 chỉ hướng dẫn trưng cầu giám định để xác định loại và hàm lượng ma túy nhưng không quy định là chỉ được truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hàm lượng ma túy đã tách. Do vậy, VKS yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Thành về tội danh tàng trữ trái phép chất ma túy (dựa vào tổng trọng lượng 2,7 g của cả 11 viên nén chứ không phải chỉ 0,5 g hàm lượng ma túy đã tách).

Cần xác định ma túy tổng hợp hay là thuốc

Luật sư Nguyễn Kiều Hưng (Đoàn Luật sư TP.HCM) nhận xét: Hiện có hai văn bản hướng dẫn áp dụng Điều 194 BLHS. Đó là Nghị quyết số 01/2001 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao và Thông tư liên tịch số 17/2007. Tuy nhiên, cả hai văn bản này đều không nói rõ là cơ quan tố tụng phải truy cứu trách nhiệm hình sự nghi can theo trọng lượng thực tế của viên thuốc có chứa chất ma túy hay hàm lượng tinh chất ma túy.

Theo luật sư Hưng, khi chưa có sự thống nhất trong việc giải thích, áp dụng các quy định của pháp luật thì cơ quan tố tụng cần xử lý theo hướng có lợi cho nghi can. Trong vụ án này, nếu các cơ quan tố tụng có cơ sở xác định loại thuốc bị cáo Thành tàng trữ là thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần với tổng hàm lượng Ketamine bóc tách từ các viên thuốc chỉ có 0,5 g thì căn bản chưa đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Thành theo quy định tại khoản e mục 3.6 phần II Thông tư liên tịch số 17/2007.

Trong khi đó, kiểm sát viên Nguyễn Quang Vinh (phó trưởng phòng thực hành quyền công tố kiểm sát xét xử sơ thẩm án an ninh và ma túy VKS TP.HCM) cho biết theo thực tiễn áp dụng Thông tư liên tịch số 17/2007, đối với ma túy tổng hợp cơ quan tố tụng sẽ dựa vào tổng trọng lượng của viên thuốc để xem xét trách nhiệm hình sự. Cơ quan tố tụng chỉ tách hàm lượng ma túy để xem xét trách nhiệm hình sự khi xác định tang vật là thuốc tân dược.

Ở vụ án trên, cả hai kết luận giám định đều chưa xác định rõ 11 viên thuốc tang vật có logo hình chữ “M” là ma túy tổng hợp hay là thuốc tân dược. Vì thế việc bắt buộc phải làm là trưng cầu giám định của cơ quan chuyên môn nhằm xác định rõ 11 viên thuốc là ma túy tổng hợp hay thuốc tân dược, tính năng, tác dụng để làm gì. Nếu các viên thuốc này là thuốc tân dược nhằm chữa bệnh thì việc xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự của nghi can dựa trên hàm lượng ma túy đã tách. Còn nếu số thuốc này không phải để chữa bệnh mà tạo cảm giác kích thích, gây nghiện thì đó là ma túy tổng hợp. Lúc đó, việc xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự của nghi can sẽ dựa trên tổng trọng lượng của các viên thuốc.

PHAN THƯƠNG

Giám định là cần thiết

11 viên nén mà CQĐT thu giữ đều có ký hiệu “M” là dạng vỉ chứ không phải viên rời. Để bảo đảm tính khách quan, các cơ quan tố tụng cần trưng cầu cơ quan chuyên môn quản lý ngành dược của Sở Y tế TP nhằm xác định nguồn gốc, xuất xứ của hai vỉ thuốc, chức năng là gì, có nằm trong danh mục cấm lưu hành hay được sử dụng theo chỉ định.

Theo kết quả giám định thì hàm lượng Ketamine trong một viên thuốc rất ít, chưa đến 20% xem như không đáng kể, về mặt chuyên môn thì đây không phải là ma túy tổng hợp. Nhưng để chính xác thì vẫn cần phải trưng cầu giám định để xác định 11 viên thuốc này là ma túy tổng hợp hay là thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần từ đó mới có căn cứ tính trọng lượng hay hàm lượng ma túy để định tội, định khung hình phạt.

Kiểm sát viên Nguyễn Khánh Toàn, Viện Phúc thẩm 3 VKSND Tối cao

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm