Hãng Channel News Asia ngày 5-2 đăng bài bình luận của cựu quan chức tình báo Mỹ kỳ cựu - ông Kent Harrington, trong đó nêu bật lo ngại về hoạt động của Trung Quốc đe dọa hệ sinh thái tại Biển Đông, ảnh hưởng tương lai kinh tế của khu vực.
Theo đó, ông Harrington nhấn mạnh lo ngại về các hoạt động của Trung Quốc tại Biển Đông hiện đang vượt quá vấn đề về luật pháp quốc tế và chủ quyền lãnh thổ trên biển, khi sự suy thoái môi trường do các đội tàu cá của Bắc Kinh gây ra đang hiện hữu trong khu vực.
Trong 25 năm làm việc tại Cục Tình báo trung ương Mỹ (CIA), ông Harrington từng giữ các vị trí: sĩ quan tình báo quốc gia phụ trách Đông Á, trưởng đại diện tại châu Á và giám đốc truyền thông của CIA.
Báo động đối với hệ sinh thái hàng hải
Theo ông Harrington, đối với 600 triệu dân tại khu vực Đông Nam Á, cuộc khủng hoảng liên quan tranh chấp lãnh thổ tại Biển Đông không phải là một mối lo ngại đâu xa trong tương lai. Các hành động của Trung Quốc đã và đang làm tổn hại đến hệ sinh thái hàng hải và sinh kế của khu vực.
Đây chính là bài học quan trọng trong cuốn sách “Dispatches from the South China Sea: Navigating to Common Ground” của GS James Borton thuộc Viện Chính sách Đối ngoại Johns Hopkins.
Các tàu đánh cá neo đậu tại Vịnh Ulugan, gần cửa Biển Đông, ngoài khơi Puerto Princesa trên đảo Palawan. Ảnh: AFP
Để làm rõ quan điểm trên, ông Harrington đã dẫn lại các đánh giá của GS Borton trong cuốn sách.
Theo đó, bỏ qua những cân nhắc về địa chính trị, ông Borton tập trung vào một sự thật cơ bản: việc Trung Quốc khai thác tại Biển Đông đang đe dọa tương lai của khu vực, thể hiện qua những thiệt hại về sinh thái, môi trường và kinh tế.
Đánh bắt quá mức
Đánh bắt thủy hải sản là trọng tâm trong câu chuyện của GS Borton, Channel News Asia dẫn nhận xét của ông Harrington.
Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên Hợp Quốc, 15-56% (tùy thuộc vào quốc gia) nguồn protein động vật được tiêu thụ tại Đông Nam Á đến từ các vùng biển lân cận.
Tuy chỉ chiếm 2,5% diện tích bề mặt đại dương của Trái đất, song Biển Đông chiếm 12% sản lượng đánh bắt cá của thế giới. Theo ông Borton, một nửa trong số 3,2 triệu tàu đánh cá đã đăng ký của thế giới hoạt động tại khu vực này.
Trong bối cảnh việc đánh bắt quá mức đang là một vấn đề toàn cầu, Trung Quốc rõ ràng có liên quan trong vấn đề này với đội tàu đánh cá hoạt động xa bờ gồm 2.500 tàu của mình (con số có thể tăng lên 17.000 nếu tính cả các tàu không đăng ký và bất hợp pháp), ông Borton đánh giá.
Ông Borton đã trực tiếp kể lại những câu chuyện từ ngư dân, quan chức và nhà nghiên cứu, từ đó phản ánh mức độ suy thoái đối với các nguồn tài nguyên quan trọng tại Biển Đông.
Ước tính có khoảng 2.500 loài cá sinh sống trong vùng biển này, nhưng kể từ năm 2000, tỉ lệ đánh bắt đã giảm 70% và trữ lượng cá lớn đã giảm 90%.
Đội tàu cá của Trung Quốc. Ảnh: ASIASOCIETY
Trong nhiều năm, Trung Quốc đã đơn phương tuyên bố lệnh cấm đánh bắt, được cho là để bảo vệ nguồn cá. Năm 2021, Bắc Kinh đã thông qua luật mới trao quyền cho lực lượng hải cảnh sử dụng vũ lực đối với tàu thuyền từ các nước láng giềng mà nước này đơn phương cho là vi phạm tại Biển Đông.
Chưa hết, trong khi lực lượng được cho là dân quân hàng hải của Trung Quốc xua đuổi tàu thuyền của các nước khác, các hoạt động đánh bắt cá của Trung Quốc tại các khu vực cấm trên thế giới vẫn tiếp tục. Như vậy, chỉ riêng Trung Quốc đã chiếm 20% sản lượng đánh bắt hàng năm của thế giới, ông Borton nhận định.
Đâu là giải pháp?
Những tác động sinh thái từ việc Trung Quốc xây dựng trái phép các đảo tại Biển Đông gây ra không ít phiền toái. Biển Đông từng là nơi có một phần ba rạn san hô trên thế giới, nhưng khoảng một nửa đã bị mất, ông Borton nhận định.
Các rạn san hô trên khắp thế giới đang bị suy thoái do tác động của biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, theo như Tòa Trọng tài thường trực (PCA) đã lưu ý trong phán quyết về Biển Đông năm 2016, Trung Quốc đã đẩy nhanh sự suy thoái này ở Biển Đông khi cách nạo vét hơn 258 km2 các rạn san hô để tạo các đảo nhân tạo trái phép.
Báo động về thiệt hại sinh thái tại Biển Đông. Ảnh: JOHN MCMANUS / CSIS
Nhấn mạnh bản chất của thách thức và các giải pháp khả thi, ông Borton viết: “Cũng giống đại dịch hiện nay đòi hỏi một cách tiếp cận hợp tác, Biển Đông đòi hỏi sự hợp tác khoa học… và truy cập mở vào dữ liệu”.
“Ngoại giao khoa học có thể thiết lập một điểm khởi đầu cho hợp tác khu vực” và “một khoảng dừng rất cần thiết đối với việc gia tăng căng thẳng” – ông Borton viết.
Tuy nhiên, ông Borton nhận định các chiến thuật vũ trang mạnh mẽ của Trung Quốc cùng việc nước này quân sự hóa tại các thực thể ở Biển Đông hầu như cho thấy Bắc Kinh không có ý định chia sẻ dữ liệu, ít đóng vai trò xây dựng hơn trong việc bảo tồn các hệ sinh thái của khu vực.
Theo đó, ông Borton nhấn mạnh rằng người dân và các nhà khoa học cần hợp tác để tìm cách thu hẹp sự chia rẽ chính trị ở Biển Đông.
Trước tình hình trên, ông Borton cho rằng các doanh nghiệp có thể có vị thế tốt hơn so với các chính phủ trong việc thực hiện các giải pháp mà ông đề xuất.
Từ những công ty khởi nghiệp đến những gã khổng lồ công nghệ, khu vực tư nhân đang tạo ra những công cụ mới giúp làm sáng tỏ hơn tình hình. Hệ thống vệ tinh và trí tuệ nhân tạo (AI) đã được sử dụng để thu thập và phân tích lượng lớn dữ liệu khí hậu phục vụ cho người dùng và các nhà nghiên cứu.
Microsoft, Google và Amazon đang thu thập và xuất bản nhiều dữ liệu khí hậu hơn. Các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, như Giám đốc điều hành BlackRock – ông Larry Fink, đang thúc đẩy công ty của họ điều chỉnh hoạt động sao cho phù hợp với chương trình khí hậu toàn cầu.