Đây là một hoạt động khá bình thường trong hoạt động hàng hải quốc tế, thông tin trên cũng thể hiện sự cảnh giác của lực lượng cảnh sát biển và kiểm ngư. Tuy nhiên có ý kiến cho rằng tại sao chúng ta không có động thái bắt giữ?
Tàu dầu khí Trung Quốc Tân Hải 517
Trên thực tế, tàu Tân Hải 517 chưa có bất kỳ dấu hiệu vi phạm pháp luật Việt Nam và quốc tế. Theo Công ước Luật Biển 1982, tàu bè các nước có quyền qua lại vô hại qua lãnh hải của nước khác. Lãnh hải là khoảng cách 12 hải lý tính từ đường cơ sở. Nôm na là từ bờ, từ chỗ nước tiếp giáp với đất liền hay từ chỗ nhô lên khi thuỷ triều xuống.
Theo Công ước Luật Biển 1982, nếu tàu nước ngoài, kể cả tàu quân sự, nếu không gây ra các hành động gây hại, đe dọa hòa bình, an ninh trật tự của quốc gia ven biển thì được quyền đi qua vô hại trong lãnh hải của quốc gia ven biển mà không cần phải xin phép, không bị cản trở, không bị thu lệ phí và không bị phân biệt đối xử. Riêng tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác buộc phải đi nổi và treo cờ quốc tịch.
Việt Nam tham gia công ước trên từ 1994 và cụ thể hoá các nội dung đó vào Luật Biển Việt Nam tại các điều 23 và 24 quy định cụ thể về các nội dung “Đi qua không gây hại trong lãnh hải” và “Nghĩa vụ khi thực hiện quyền đi qua không gây hại”.
Thế nên tàu dầu khí Tân Hải 517 đi cách bờ biển ta 40 hải lý, tức đi ngoài lãnh hải, thì không có lý do gì để chúng ta cản trở nó. Khi một tàu dầu nước ngoài xuất hiện cự ly gần, chúng ta cảnh giác theo dõi nhưng tôn trọng luật quốc tế.
"Đi qua không gây hại" là gì?
Luật Biển Việt Nam quy định nội dung “Đi qua không gây hại trong lãnh hải” tại Điều 23, như sau: Việc đi qua không gây hại trong lãnh hải không được làm phương hại đến hòa bình, quốc phòng, an ninh của Việt Nam, trật tự an toàn trên biển. Việc đi qua của tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải Việt Nam bị coi là gây phương hại đến hòa bình, quốc phòng, an ninh của Việt Nam, trật tự an toàn xã hội nếu tàu thuyền đó tiến hành bất kỳ một hành vi nào sau đây: Đe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; Đe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác; thực hiện các hành vi trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế được quy định trong Hiến chương Liên Hợp quốc; Luyện tập hay diễn tập với bất kỳ kiểu, loại vũ khí nào, dưới bất kỳ hình thức nào; Thu thập thông tin gây thiệt hại cho quốc phòng, an ninh của Việt Nam; Tuyên truyền nhằm gây hại đến quốc phòng, an ninh của Việt Nam; Phóng đi, tiếp nhận hay xếp phương tiện bay lên tàu thuyền; Phóng đi, tiếp nhận hay xếp phương tiện quân sự lên tàu thuyền; Bốc, dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu thuyền trái với quy định của pháp luật Việt Nam về hải quan, thuế, y tế hoặc xuất nhập cảnh; Cố ý gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường biển; Đánh bắt hải sản trái phép; Nghiên cứu, điều tra, thăm dò trái phép; Làm ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống thông tin liên lạc hoặc của thiết bị hay công trình khác của Việt Nam; Tiến hành hoạt động khác không trực tiếp liên quan đến việc đi qua. “Nghĩa vụ khi thực hiện quyền đi qua không gây hại” được quy định tại Điều 24 Luật Biển Việt Nam:“Khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có nghĩa vụ tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam về nội dung: An toàn hàng hải và điều phối giao thông đường biển, tuyến hàng hải và phân luồng giao thông; Bảo vệ thiết bị và hệ thống bảo đảm hàng hải, thiết bị hay công trình khác; Bảo vệ đường dây cáp và ống dẫn; Bảo tồn tài nguyên sinh vật biển; Hoạt động đánh bắt, khai thác và nuôi trồng hải sản; Gìn giữ môi trường biển, ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển; Nghiên cứu khoa học biển và đo đạc thủy văn; Hải quan, thuế, y tế, xuất nhập cảnh”. |