Trong 6 tháng, cả nước có 9 trường hợp đình chỉ điều tra bị can do không phạm tội

(PLO)- Theo thông báo của VKSND Tối Cao, trong kỳ báo cáo (từ 1-10-2023 đến 31-3-2024), cả nước xảy ra 9 trường hợp đình chỉ điều tra bị can do không phạm tội theo khoản 1, 2 Điều 157 BLTTHS.

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

Vừa qua (26-4), VKSND Tối cao ban hành Thông báo số 79/TB-VKSTC để rút kinh nghiệm về công tác quản lý, kiểm tra và báo cáo đánh giá việc đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, bị can do không phạm tội và đình chỉ miễn trách nhiệm TNHS theo Điều 29 BLHS.

Đáng chú ý, thông báo đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong việc đình chỉ vụ án, bị can do không phạm tội.

khong-pham-toi.jpg
Quang cảnh một phiên tòa hình sự. Ảnh: NN

Đình chỉ điều tra do không phạm tội

Cụ thể, trong kỳ báo cáo (thời điểm từ 1-10-2023 đến 31-3-2024), trên toàn quốc xảy ra 9 trường hợp đình chỉ điều tra bị can do không phạm tội theo khoản 1, 2 Điều 157 BLTTHS, tại các địa phương: Vĩnh Long, Đồng Nai, Hà Nội, Ninh Thuận, Lạng Sơn, An Giang, Kiên Giang. Trong đó, trừ VKSND TP Hà Nội, các đơn vị còn lại chưa chủ động báo cáo nguyên nhân, trách nhiệm, biện pháp khắc phục đối với các trường hợp đình chỉ bị can do không phạm tội...

Trong kỳ báo cáo phát sinh số liệu đình chỉ do không phạm tội là: 43 vụ/12 bị can (tăng 10 vụ so với cùng kỳ năm 2023), số liệu đình chỉ nêu trên chưa đáp ứng được yêu cầu "không để xảy ra việc đình chỉ do không phạm tội, hạn chế thấp nhất việc đình chỉ miễn TNHS".

Thông báo cũng chỉ ra nhiều nguyên nhân trong việc đình chỉ do không phạm tội. Thứ nhất là do việc điều tra, thu thập và đánh giá chứng cứ khi quyết định khởi tố bị can không toàn diện, khách quan; chưa đúng quy định của pháp luật dẫn đến khởi tố người không thực hiện hành vi phạm tội. Sau đó phải đình chỉ điều tra bị can do không phạm tội.

Thứ hai là việc đánh giá chứng cứ khi quyết định khởi tố bị can của cơ quan tiến hành tố tụng chưa chính xác, chưa đảm bảo đúng quy định của pháp luật, không làm rõ và xác định được mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của bị can với hậu quả của vụ án.

Thứ ba là cơ quan tố tụng hình sự hóa quan hệ dân sự, thiếu khách quan khi quyết định khởi tố vụ án, bị can.

Thứ tư là người tiến hành tố tụng hạn chế thiếu sót trong nhận thức, áp dụng pháp luật, khởi tố không đúng tội danh nên phải đình chỉ điều tra bị can.

Cạnh đó, trong kỳ báo cáo phát sinh một số trường hợp đình chỉ do người thực hiện hành vi phạm tội chưa đủ tuổi chịu TNHS. Nguyên nhân là CQĐT chưa thực hiện đầy đủ các biện pháp điều tra để xác minh nhân thân, lý lịch, độ tuổi của người thực hiện hành vi phạm tội trước khi khởi tố vụ án, bị can dẫn đến phải đình chỉ điều tra do người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu TNHS theo quy định tại khoản 3 Điều 157 BLTTHS.

VKS đình chỉ miễn TNHS 78 vụ/87 bị can

VKSND Tối cao cũng chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong việc đình chỉ miễn TNHS theo Điều 29 BLHS.

Cụ thể, số liệu án đình chỉ miễn TNHS của VKSND các cấp tăng so với cùng kỳ năm 2023.

Theo số liệu các đơn vị báo cáo, VKS đình chỉ miễn TNHS theo Điều 29 BLHS là 78 vụ/87 bị can, trong khi trước đó CQĐT kết luận điều tra đánh giá hành vi nguy hiểm cho xã hội và đề nghị VKS truy tố. Vì vậy, VKSND cấp huyện, cấp tỉnh cần phối hợp thống nhất với CQĐT về đường lối giải quyết vụ án tại CQĐT, hạn chế thấp nhất trường hợp CQĐT kết luận điều tra đề nghị VKS truy tố sau đó vụ án được VKS đình chỉ nhưng không có tình tiết mới.

Phần lớn các trường hợp đình chỉ miễn TNHS theo khoản 3 Điều 29 BLHS là đối với các bị can bị khởi tố về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ". Do đó, các đơn vị VKSND cấp huyện, cấp tỉnh cần tăng cường công tác quản lý các trường hợp đình chỉ đối với loại tội phạm này, đáp ứng yêu cầu phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực an toàn giao thông...

Còn có một số trường hợp, việc phân loại khởi tố vụ án, bị can chưa chính xác dẫn đến tòa án cấp phúc thẩm trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc hủy án để điều tra lại, sau đó phải đình chỉ miễn TNHS đối với bị can. Việc áp dụng căn cứ đình chỉ đối với các bị can nêu trên theo khoản 2 Điều 29 BLHS là chưa chính xác, cần được VKSND cấp trên kiểm tra, đánh giá lại...

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm