VCCI đề xuất 4 phương án xây dựng Dự thảo Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi)

(PLO)- Quy định về đối tượng không chịu thuế GTGT với một số mặt hàng đang gây tác động bảo hộ ngược, khuyến khích nhập khẩu hàng hoá thay vì sản xuất trong nước.
0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

Ngày 8-8, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có văn bản gửi Bộ Tài chính về việc góp ý đối với Dự thảo xây dựng Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi).

Theo văn bản, Điều 5 của Luật Thuế GTGT quy định về đối tượng không chịu thuế gồm nhiều mặt hàng như nông sản chưa chế biến, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón... và một số loại máy móc, thiết bị, vật tư khác…

Các DN trong nước sản xuất hàng hoá này hiện đang không phải đóng thuế GTGT cho sản phẩm đầu ra. Tuy nhiên, các DN này cũng không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào.

Trong khi đó, sản phẩm tương tự nhập khẩu không phải chịu thuế GTGT khi nhập khẩu nhưng lại được hoàn thuế GTGT khi xuất khẩu ra khỏi nước đối tác.

Như vậy, theo VCCI, đối với các mặt hàng này hàng hoá nhập khẩu đang có chi phí thuế thấp hơn hàng hoá sản xuất trong nước.

Theo khảo sát của VCCI, số thuế GTGT chưa được khấu trừ của các mặt hàng trên xuất phát từ các chi phí đầu vào chịu thuế như chi phí nhà xưởng, văn phòng, chi phí năng lượng, chi phí vận tải… và một số chi phí khác.

Theo phản ánh của các DN, tỷ lệ thuế GTGT chưa được khấu trừ có thể dao động từ 1% đối với một số loại nông sản đến 8% đối với phân bón, máy móc.

Quy định về đối tượng không chịu thuế GTGT đang gây tác động bảo hộ ngược, khuyến khích nhập khẩu hàng hoá thay vì sản xuất trong nước.

Nếu so sánh với thuế nhập khẩu, khi đàm phán các hiệp định thương mại tự do (FTAs), Việt Nam chỉ chấp nhận hạ thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng và đối tác theo nguyên tắc có đi có lại. Tức là các nước khác cũng phải đồng ý mở cửa thị trường cho hàng hoá của Việt Nam.

Trong khi đó, quy định về đối tượng không chịu thuế GTGT đã khiến Việt Nam “cho không” tất cả các nước đối tác số tiền thuế rất lớn và “mở toang” thị trường trong nước với lợi thế cho hàng nhập khẩu.

VCCI đề xuất 4 phương án cụ thể

Văn bản cũng nêu thêm, dự thảo hiện nay đã thu hẹp phạm vi đối tượng không chịu thuế tại Điều 5 của Luật. Đây là quan điểm hợp lý và cần thiết nhằm khuyến khích sản xuất trong nước. Tuy nhiên, dự thảo chỉ đề cập vấn đề này đối với phân bón, tàu cá và máy móc nông nghiệp với giải pháp đưa ra là chuyển các mặt hàng này từ diện không chịu thuế sang diện thuế suất 5%. Các mặt hàng còn lại thuộc diện không chịu thuế, dù gặp vấn đề bảo hộ ngược tương tự, nhưng chưa có giải pháp.

Do đó, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục rà soát để loại bỏ các mặt hàng thuộc đối tượng không chịu thuế. Đối với các loại hàng hoá, dịch vụ mà Việt Nam không nhập khẩu từ nước ngoài (hoàn toàn tự sản xuất, cung ứng và tiêu dùng trong nước) thì tiếp tục duy trì diện không chịu thuế. Đối với các loại hàng hoá, dịch vụ mà Việt Nam có nhập khẩu từ nước ngoài để tiêu dùng trong nước thì cần loại bỏ khỏi diện không chịu thuế mà chuyển sang các mức thuế suất phù hợp.

Về các mức thuế suất VCCI cũng đề xuất 4 phương án.

Phương án 1: chuyển các mặt hàng không chịu thuế sang diện chịu thuế với các mức thuế suất 5%. Tuy nhiên, theo VCCI, với phương án này, những DN có tỷ trọng thuế GTGT chưa khấu trừ lớn hơn 5% chuyển về mức 5% giúp DN giảm được số thuế phải nộp lại bảo đảm công bằng thuế với hàng hoá nhập khẩu.

Mặt khác, những DN có tỷ trọng thuế GTGT chưa khấu trừ nhỏ hơn 5% chuyển về mức 5% sẽ khiến DN sẽ phải nộp thêm thuế.

Phương án 2: chuyển các mặt hàng không chịu thuế sang diện chịu thuế với các mức thuế suất 5% hoặc 0%. Theo đó, các mặt hàng có tỷ trọng thuế GTGT chưa được khấu trừ trên 5% thì chuyển về mức 5%, còn các mặt hàng có tỷ trọng thuế GTGT chưa được khấu trừ dưới 5% thì chuyển về mức 0%.

Tuy nhiên, phương án này sẽ khiến ngân sách nhà nước phải chi nhiều tiền để hoàn thuế cho các DN, dẫn đến nguy cơ gian lận thuế cao, chi phí quản lý thuế lớn.

Phương án 3: chuyển các mặt hàng không chịu thuế sang diện chịu thuế với các mức thuế suất khác nhau.

Việc lựa chọn mức thuế suất phù hợp để chuyển các mặt hàng này sang cần căn cứ vào chi phí thuế trung bình chưa được khấu trừ trong giá thành sản phẩm. Cụ thể, mức thuế suất mới luôn thấp hơn so với chi phí thuế trung bình.

Ví dụ, đối với mặt hàng có chi phí thuế trung bình chưa được khấu trừ 6% thì nên chuyển sang diện thuế suất 5%; mặt hàng có chi phí thuế trung bình chưa được khấu trừ 4% thì có thể chuyển về mức 3%.

Theo VCCI, phương án này sẽ khiến các mặt hàng sản xuất trong nước và mặt hàng nhập khẩu chịu chung một mức thuế suất, xoá bỏ toàn bộ việc bảo hộ ngược.

Nhưng phương án này có nhược điểm là sẽ phải đặt ra thêm các mức thuế suất mới, gây phức tạp cho hệ thống thuế.

Phương án 4: cho phép doanh nghiệp trong nước chọn phương pháp tính thuế

Theo phương án này, toàn bộ hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng trong nước (không thuộc diện xuất khẩu) được phân loại vào hai nhóm với thuế suất 5% và 10%.

Chuyển toàn bộ hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế sang diện thuế suất 5%; không còn diện hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế.

Nhóm này được bổ sung vào diện cho phép lựa chọn phương pháp tính thuế khấu trừ hoặc phương pháp tính thuế trực tiếp (tại các Điều 10 và Điều 11 của Luật)

Nhóm hàng hoá, dịch vụ chịu thuế suất 10% vẫn tiếp tục thực hiện các quy định về thuế như hiện hành.

Phương án này sẽ không phát sinh các mức thuế mới mà chỉ có các mức 5% và 10%.

Ngoài ra, VCCI cũng đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc ưu tiên lựa chọn phương án 3 hoặc phương án 4.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm