Chuyên gia Mỹ: Cách Bắc Kinh 'bẻ cong' luật lệ tại Biển Đông

Tờ The Interpreter của Viện nghiên cứu Lowy (Úc) ngày 17-2 đã đăng bài phân tích của bà Oriana Skylar Mastro - chuyên gia của Viện Nghiên cứu Quốc tế Freeman Spogli tại Đại học Stanford (Mỹ) – nhận định về “chiến lược pháp lý” Trung Quốc sử dụng nhằm “bẻ cong” luật lệ ở Biển Đông.

Theo bà Mastro, các cuộc tập trận của Trung Quốc ở Biển Đông hồi tháng 1 và phản ứng mạnh mẽ của Mỹ cho thấy tình hình căng thẳng tại Biển Đông sẽ không sớm hạ nhiệt. Tuy nhiên, trong khi dư luận quốc tế chủ yếu tập trung vào các cuộc tập trận, “cuộc chiến về pháp lý” vẫn đang nóng lên. 

Năm 2020, cả Mỹ và Úc đã chính thức tuyên bố các yêu sách của Bắc Kinh tại Biển Đông là trái pháp luật, động thái được cho là đã thử thách phản ứng của Trung Quốc.

Tuy nhiên, bà Mastro nhận định rằng vấn đề không chỉ dừng ở việc Trung Quốc vi phạm trắng trợn luật pháp quốc tế, mà còn là cách Bắc Kinh đồng thời tạo ra một “vỏ bọc hợp pháp về mặt pháp lý” cho yêu sách của mình.

Hai nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ cùng hiện diện tại Biển Đông ngày 9-2. Ảnh: HẢI QUÂN MỸ

Trung Quốc tuyên bố chủ quyền phi pháp đối với “hầu hết các đảo ở Biển Đông và vùng biển lân cận” với cái gọi là “đường chín đoạn” (đường lưỡi bò).

Bên ngoài, các nhà lãnh đạo Trung Quốc tỏ ra dựa vào một lập luận lịch sử để củng cố các yêu sách của mình - rằng Bắc Kinh có sự tương tác tại Biển Đông từ thời Tây Hán. Câu chuyện của Bắc Kinh về các yêu sách bắt đầu từ thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, khi người Trung Quốc đi thuyền trên Biển Đông và khám phá ra một số thực thể đất liền của khu vực.

Theo bà Mastro, giới học giả đã phân tích bản chất mơ hồ của lập luận lịch sử này. Theo đó, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982 không cho phép các bên ký kết đưa ra yêu sách dựa trên “di sản lịch sử”, và khái niệm “yêu sách lịch sử” thiếu cơ sở rõ ràng trong luật pháp quốc tế.

Tuy nhiên, trên thực tế, đây không phải là cách Trung Quốc tuyên bố chủ quyền phi lý đối với 90% diện tích Biển Đông.

Chuyên gia Mastro nhấn mạnh rằng việc Trung Quốc lạm dụng và áp dụng sai luật pháp quốc tế phức tạp hơn. Theo đó, bà làm rõ bốn cấp độ lập luận pháp lý Bắc Kinh xây dựng nhằm củng cố yêu sách của mình.

Bốn cấp độ trong chiến thuật pháp lý của Trung Quốc

 Thứ nhất, Trung Quốc tuyên bố có các quyền giống như các quốc gia quần đảo - những quốc gia chủ yếu được tạo thành từ các đảo. 

Một trong những lợi ích của quy chế quốc gia quần đảo là vùng nước giữa các đảo được coi là nội thủy, giống như các con sông bên trong một quốc gia. Các quốc gia khác không có quyền đi lại trong các vùng biển này nếu không được cho phép. Chỉ có LHQ có quyền trao quy chế quốc gia hòn đảo và hiện chỉ có 22 quốc gia được công nhận là quốc gia quần đảo.

Rõ ràng, Trung Quốc là một quốc gia lục địa, song lại vẽ đường cơ sở thẳng quanh quần đảo Hoàng Sa (thuộc chủ quyền Việt Nam bị Trung Quốc chiếm đóng phi pháp) và tuyên bố vùng biển giữa các đảo là nội thủy. Tuy Bắc Kinh không thực hiện cách tiếp cận này một cách rõ ràng đối với khu vực quần đảo Trường Sa (thuộc chủ quyền của Việt Nam), nhưng phản ứng của họ trước hoạt động của các nước khác đã cho thấy cách tiếp cận của nước này. 

Bà Mastro dẫn các cuộc trao đổi với các chiến lược gia Trung Quốc tiết lộ rằng Bắc Kinh có thể sẽ vạch ra một cách rõ ràng các đường cơ sở nhằm tuyên bố chủ quyền vùng nội thủy trong quần đảo Trường Sa, một khi nước này có đủ năng lực quân sự để thực thi. Có thể nhìn nhận đây không phải là một việc dễ dàng, vì vùng biển của Trường Sa gấp 12 lần so với Hoàng Sa, với diện tích từ khoảng 160.000 km vuông - 180.000 km vuông.

Thứ hai, Trung Quốc tuyên bố chủ quyền vùng lãnh hải rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở Hoàng Sa, không phải từ các đảo riêng lẻ và ở Trường Sa từ nhiều thực thể vốn theo luật pháp quốc tế không có quyền này, như các đảo nhân tạo. 

Hơn nữa, Trung Quốc đưa ra cách giải thích về lãnh hải rằng đây là không gian mà ở đó nhà nước có quyền ban hành, áp dụng và thực thi luật của mình và nước ngoài không được can thiệp. 

Tuy nhiên, theo UNCLOS, tất cả các tàu, dù dân sự hay quân sự, được hưởng quyền đi lại vô hại qua lãnh hải của các quốc gia khác. Hơn nữa, vùng tiếp giáp lãnh hải được coi là một phần của vùng biển quốc tế, và các quốc gia không có quyền hạn chế hàng hải hoặc thực hiện bất kỳ quyền kiểm soát nào vì mục đích an ninh.

Tàu khu trục USS John S. McCain của Mỹ có mặt gần quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam hôm 5-2. Ảnh: HẢI QUÂN MỸ

Thứ ba, Trung Quốc tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) rộng 200 hải lý tính từ ranh giới lãnh hải, nơi Bắc Kinh tuyên bố có quyền kiểm soát hoạt động quân sự.

Mỹ khẳng định rằng tự do hàng hải của các tàu quân sự là một tập quán được thiết lập và chấp nhận trên toàn cầu, được ghi nhận theo luật pháp quốc tế. Nói cách khác, các quốc gia không có quyền hạn chế hàng hải hoặc thực hiện bất kỳ quyền kiểm soát nào vì mục đích an ninh trong các EEZ. 

Úc cũng chia sẻ chung quan điểm về vấn đề này, song không phải tất cả các nước đều chấp nhận cách lý giải này. Argentina, Brazil, Ấn Độ, Indonesia, Iran, Malaysia, Maldives, Oman và Việt Nam đưa ra lập trường rằng tàu chiến không có quyền tự động đi lại vô hại trong lãnh hải của các quốc gia này. 

Theo bà Mastro, 20 quốc gia đang phát triển khác (gồm Brazil, Ấn Độ, Malaysia và Việt Nam) nhấn mạnh rằng các hoạt động quân sự như giám sát và do thám của một quốc gia trong EEZ của quốc gia khác là xâm phạm lợi ích an ninh của các quốc gia đó, và do đó không được bảo vệ theo quyền tự do hàng hải.

Nói cách khác, trong khi luật pháp quốc tế có thể ủng hộ quan điểm của Mỹ và Úc về hành vi pháp lý trong các EEZ, các quốc gia cần nỗ lực hơn nữa để thúc đẩy việc thực hiện quy phạm này một cách rộng rãi hơn.

Chỉ tính riêng ba lập trường về nội thủy, lãnh hải và EEZ, Trung Quốc đã tuyên bố chủ quyền với khoảng 80% Biển Đông. 

Cuối cùng, Trung Quốc sử dụng cái gọi là “đường chín đoạn” để bao trùm phần lãnh thổ còn lại và yêu sách "vùng lãnh hải lịch sử".

Một lần nữa, việc yêu sách vùng lãnh hải lịch sử của Trung Quốc cũng thiếu cơ sở pháp lý theo luật pháp quốc tế, chuyên gia Mastro nhấn mạnh.

Mỹ sẽ làm gì?

Mỹ đã có các động thái nhằm thách thức cơ sở pháp lý sai trái trong các yêu sách của Trung Quốc, thể hiện qua việc Washington tiến hành các hoạt động tự do hàng hải (FONOPs) tại Biển Đông.

Đây được cho là nỗ lực của Mỹ nhằm khẳng định nước này không chấp nhận các lập luận của Trung Quốc rằng các khu vực biển tại Biển Đông không phải là vùng biển quốc tế mà là nội thủy hoặc lãnh hải.

Đồng thời, Mỹ cũng phát đi tín hiệu rằng Washington không chấp nhận một khu vực nằm trong EEZ của Trung Quốc, ngay cả khi Trung Quốc cũng không có quyền kiểm soát hoạt động quân sự ở đó.

Tuy nhiên, theo bà Mastro, việc bác bỏ các tuyên bố pháp lý sai trái của Trung Quốc sẽ cần nhiều hơn là các hoạt động quân sự và tuyên bố cứng rắn. 

Vào năm 2016, Tòa án quốc tế La Hay đã ra phán quyết khẳng định yêu sách của Trung Quốc về các quyền lịch sử ở Biển Đông là thiếu cơ sở pháp lý, các hành động của Trung Quốc trong khu vực đã xâm phạm các quyền của Philippines, và các thực thể ở Trường Sa không được hưởng EEZ hoặc lãnh hải. 

Bà Mastro cho rằng việc Washington từ chối phê chuẩn UNCLOS đã làm suy yếu hiệu quả chung trong việc đẩy lùi Bắc Kinh bằng các công cụ pháp lý. Ngoài ra, Washington đã lãng phí cơ hội ủng hộ Philippines thực thi phán quyết năm 2016, do đó càng làm giảm sức hấp dẫn đối với các bên tuyên bố chủ quyền tại Biển Đông khác trong việc thách thức Bắc Kinh trên cơ sở pháp lý.

Bà Mastro kết luận rằng Mỹ không nên phạm phải sai lầm tương tự và nên ủng hộ các bên có tuyên bố chủ quyền khác tại Biển Đông nếu các nước này có ý định phản đối Bắc Kinh trên cở sở pháp lý. Sau đó, khi tòa án đưa ra phán quyết, Mỹ nên đi đầu trong việc thực thi phán quyết.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm