13 năm vác đá xây Trường Sa

“Cho dù có đi hết cuộc đời, những năm tháng xây đảo Trường Sa vẫn không thể nào quên trong ký ức tôi. Quãng đời đẹp nhất của lính công binh hải quân là thời gian đi Trường Sa xây đảo”. Đó là tâm sự của ông Phạm Văn Minh, quê ở Nga Thanh (Nga Sơn, Thanh Hóa), người có thâm niên 13 năm liền vác đá xây Trường Sa.

Năm tháng không quên

Đêm đầu tiên trên con tàu HQ-936 của Vùng 4 Hải quân chở đoàn đại biểu “góp đá xây Trường Sa” đi thăm quân dân huyện đảo, trong khi mọi người xem phim tư liệu “Tổ quốc nơi đầu sóng” thì một người đàn ông đứng phía mũi tàu nhìn xa xăm về trước. Dưới ánh trăng đầu tuần, nước mắt ông lăn dài, ông nghĩ về những năm tháng cùng bao đồng đội vác đá xây đảo.

Sau 1975, chúng ta tiếp tục đưa bộ đội hải quân ra Trường Sa trú đóng ở một số bãi cạn, khẳng định cột mốc chủ quyền và xây những công trình nhà ở lâu bền trên phần đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Khi ấy ông Phạm Văn Minh là đại đội trưởng Đại đội 10, thuộc Trung đoàn 131 công binh Hải quân. Trước ngày ra bãi cạn Tiên Nữ xây đảo, ông nhận được tin 64 cán bộ, chiến sĩ trên tàu HQ-604 đã anh dũng chiến đấu, giành giật từng tấc đảo với quân thù, có người đã vĩnh viễn nằm lại biển khơi. Tin dữ ấy không làm ông chùn bước. Trái lại, ông càng nung nấu ý chí và quyết tâm đi đảo. “Lúc đó tôi nghĩ việc xây đảo và khẳng định chủ quyền trên phần đất của Tổ quốc mình là sứ mệnh của người lính trên tuyến đầu chứ không nghĩ đến khó khăn gian khổ. Đi đảo ngày ấy là một niềm vinh dự lớn lao, tự hào và vinh quang vô cùng” - ông Minh nhớ lại.

13 năm vác đá xây Trường Sa ảnh 1

Nhiều thế hệ người lính đã đổ mồ hôi, nước mắt và cả máu để có được những “loa thành” trên đảo hôm nay. Ảnh: ĐỨC HIỂN

Một ngày cuối tháng 3-1988, Đại úy Phạm Văn Minh cùng 36 cán bộ, chiến sĩ trên tàu hải quân vượt sóng ra bãi cạn Tiên Nữ. Ông Minh kể hồi ấy các đảo lớn, nhỏ thuộc quần đảo Trường Sa vẫn còn hoang sơ, chủ yếu là đảo chìm. Khi thủy triều xuống, đảo nhô lên khỏi mặt nước, thủy triều lên, đảo lại chìm dưới biển. Thời tiết vô cùng khắc nghiệt, ban ngày nắng cháy da, đêm phải đắp chăn chống lại sương biển và hơi muối mặn. Để đẩy nhanh tiến độ xây đảo, các chiến sĩ phải chạy đua với thời gian, bất chấp thời tiết nắng, mưa, hễ thủy triều xuống là đi vác đá từ tàu vào đảo. Do ngâm trong nước biển mặn lâu ngày, chân tay của các chiến sĩ đều bị bong tróc, tóc ai cũng cứng và đỏ quạch như rễ tre, da đen nhẻm. Dưới cái nắng 40oC và gió rát mặt, họ chỉ nhận ra nhau bằng hàm răng trắng và ánh mắt sáng.

Ngày ấy vác đá không có tấm bảo hộ kê vai như bây giờ nên chỉ sau ba ngày là vai áo chiến sĩ rách bươm. “Chúng tôi nghĩ ra cách gấp đôi chiếc bao tải, đặt lên vai lót để vác đá cho đỡ đau. Thức ăn của chiến sĩ ngày ấy cũng chủ yếu là đồ hộp và rau muống phơi khô đem ra từ đất liền. Do không có thực phẩm tươi, nhiều chiến sĩ bị đau bụng, kiết lỵ. Nhiều đêm giông bão ầm ầm, anh em ngồi bên nhau kể chuyện quê nhà, cây đàn guitar bập bùng, bài hát “Đời mình là một khúc quân hành” vang lên trong màn đêm lẫn vào sóng nước. Sau những phút giây vui tươi ấy là khoảng lặng. Trong sâu thẳm trái tim, các chiến sĩ đều nhớ đất liền, thương mẹ già ở quê, nhớ người bạn gái bịn rịn chia tay trước lúc lên đường…” - ông Minh kể.

Những loa thành trên đảo

Nói về chuyện vác đá rách vai, giọng ông Minh chùng xuống, xúc động: “Vết xước của đá trên vai càng nhiều, mình càng thấy yêu Tổ quốc. Đá càng nặng, tình yêu Tổ quốc càng sâu, thương đồng đội càng nhiều. Vác đá trên vai là vác trọng trách của nhân dân giao phó”.

Những khó khăn ấy chưa phải là tận cùng. Vào một chiều tháng 7-1988, sau gần sáu ngày vật lộn với nắng gió, một “loa thành” nữa gần sắp hoàn thành. Bỗng trời nổi giông, sấm chớp ầm ầm, mưa như trút nước. Nhìn bức tường vừa xây xong chưa kịp ráo vữa bị mưa biển xói mòn, anh em ôm nhau khóc. “Trong nước mắt, hình ảnh ngôi nhà giữa biển khơi với lá cờ đỏ sao vàng bay trên nóc đảo lấp lánh trong tim những người chiến sĩ. Đó chính là động lực khiến ngay sau khi cơn giông vừa tạnh, tôi cùng các chiến sĩ lại khẩn trương bắc giàn giáo, trộn hồ xếp từng viên đá vào lòng biển”.

13 năm vác đá xây Trường Sa ảnh 2

Cựu binh Phạm Văn Minh. Ảnh: TUẤN CƯỜNG

“Bây giờ nếu lại ra Trường Sa xây đảo, bác sẵn sàng chứ?” - tôi hỏi. Chẳng do dự, ông Minh trả lời: “Tổ quốc gọi, tôi sẵn sàng. Nếu được trở lại quân ngũ, cho tôi xin trở lại Trường Sa để tiếp tục xây đảo. Trường Sa với tôi là máu thịt thiêng liêng nhất. Từng viên đá xây đảo, từng ngôi nhà lâu bền đã thấm mồ hôi nước mắt và cả máu của đồng đội. Những ngày xây đảo là những ngày hoa lửa đẹp đẽ nhất của đời tôi”.

Hơn 13 năm chân trần vác đá xây đảo Nam Yết, Tốc Tan, Tiên Nữ, Trường Sa Lớn, cựu binh Minh cảm nhận được sự hy sinh thầm lặng của những người lính công binh thời bình. Tất cả mất mát, gian khổ năm xưa trở thành câu chuyện về những năm tháng xây loa thành kiên cố mang dáng hình Tổ quốc giữa trùng khơi. Chuyện của ông như truyền thêm lửa và hâm nóng tình yêu biển, đảo cho thế hệ cán bộ, chiến sĩ trẻ sau này. “Từng viên đá, nắm cát Trường Sa đều mang hồn thiêng Tổ quốc. Trường Sa là phần đất không tách rời của Việt Nam, bảo vệ giữ gìn Trường Sa là trách nhiệm đời đời của con cháu” - ông Minh nói trong xúc động.

Người gác đèn trên đảo An Bang

Anh Lê Anh Hiền, nhân viên trạm hải đăng trên đảo An Bang (Trường Sa), được anh em ở đây đặt cho biệt danh “kình ngư trên đảo” do khả năng bơi lội và tài săn cá của mình. Hiền kể đầu năm 2011, anh lên đường ra Trường Sa nhận nhiệm vụ. Công việc chính của anh và mọi người ở đây là buổi chiều phải chạy máy nổ để tích điện vào bình ắc quy, đến 17 giờ 30 phải thắp sáng hải đăng. Ban ngày, các nhân viên cùng lau chùi vệ sinh các bóng đèn và các tấm gương xung quanh vì hơi nước biển thường làm mờ các tấm gương trên tháp đèn. Anh Hiền nói: “Dù không mang vác nặng nhọc nhưng công việc cứ lặp đi lặp lại ngày này qua tháng khác nên dễ gây nhàm chán. Do đó, lúc rảnh rỗi, anh em thường trồng rau, bắt cá, nuôi gà, vịt để cải thiện bữa ăn và đỡ nhớ hơi ấm đất liền”.

Hiền kể anh mày mò tự chế súng để đi săn cá, mũi tên là một thanh inox dài 2 m có khắc ngạnh, súng thì làm bằng gỗ, lấy dây ruột xe máy làm dây cung. Những lúc rảnh rỗi, anh lận súng, đeo kiếng lặn và ống thở đi săn cá. “Nhiều hôm tôi nằm phục dưới làn nước xanh ngắt hạ gục những chú cá to cả 10 kg. Thế là hôm ấy mọi người trên đảo được thưởng thức bữa tươi ngon lành” - anh Hiền nói.

Anh Hiền cho biết ở Trường Sa hiện có chín trạm hải đăng, bình quân mỗi trạm có năm nhân viên làm việc. Theo đó, tùy theo phân công mỗi nhân viên bám trụ tại một trạm trong vòng 6-9 tháng, sau đó được về đất liền đoàn tụ gia đình, nghỉ ngơi vài tháng. Hết kỳ nghỉ này, họ được phân công đến một trạm khác, có thể năm này ở đảo nổi thì năm sau được bố trí ở đảo chìm.

PHONG ĐIỀN

MAI TUẤN CƯỜNG

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm