Ngày 10-6, báo Pháp Luật TP.HCM tổ chức Tọa đàm “Loại bỏ những rào cản để kinh tế tư nhân phát triển theo Nghị quyết 68”.
Tại buổi tọa đàm, các chuyên gia đã mổ xẻ những “điểm nghẽn” cố hữu và đề xuất những giải pháp đột phá, với niềm tin rằng đã đến lúc cần một “cú hích” tổng lực để kinh tế tư nhân thực sự bứt phá.
Khát vốn và vòng luẩn quẩn tài sản đảm bảo
Một trong những tiếng nói đầu tiên tại tọa đàm, ông Huỳnh Tấn Lộc, Giám đốc Công ty TNHH SkyBus, cho biết dù đã có những tín hiệu vui từ chính sách, như Thông tư 47 giúp gỡ khó cho lĩnh vực cải tạo xe, hay Nghị quyết 68 thúc đẩy kinh tế tư nhân nhưng vấn đề cốt lõi mà doanh nghiệp (DN) như ông đối mặt khi muốn lớn mạnh chính là vốn.
“Tình hình chung của DN là cần vốn để phát triển. Chúng tôi rất cần có cơ chế mở, cụ thể là sự hỗ trợ từ phía các ngân hàng. Ngoài ra, cần có sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua ngân hàng phát triển, cũng như sự kết nối của các cơ quan, ban ngành tới các quỹ đầu tư trong và ngoài nước để DN có vốn phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn” - ông Lộc tha thiết.
Nếu vốn là rào cản về nguồn lực thì những vướng mắc về thủ tục hành chính lại là “bức tường” vô hình bào mòn sức lực và cơ hội của doanh nghiệp.
Tại Tọa đàm một đại diện ngân hàng cho rằng việc cấp vốn vay cho các DN khởi nghiệp (startup) đang gặp rất nhiều rào cản. Theo đó hoạt động của ngân hàng hiện nay phải tuân thủ chặt chẽ quy định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), trong đó việc thẩm định cho vay phải dựa trên yếu tố đầu vào. Điều này có nghĩa là DN muốn vay phải có tài sản đảm bảo tốt, dòng tiền ổn định, kế hoạch trả nợ khả thi.
Trong khi đó, thực tế có rất nhiều DN startup với ý tưởng kinh doanh đột phá, ban lãnh đạo tài năng nhưng lại không thể đáp ứng các yêu cầu về tài sản đảm bảo. Có nhiều DN ý tưởng kinh doanh rất tốt và khả thi nhưng lại không đáp ứng được yếu tố đầu vào nên việc cấp vốn vay rất khó.
Vị đại diện ngân hàng chỉ ra một điểm nghẽn lớn: Việt Nam đang thiếu dịch vụ xếp hạng tín nhiệm uy tín khiến DN tốt - chưa tốt bị “trộn lẫn”. Khi thiếu công cụ phân định này, ngân hàng không có cơ sở để xây dựng chính sách cho vay phù hợp mà không dựa vào tài sản thế chấp.
“Tôi được biết trên thế giới các định chế tài chính đã định giá được yếu tố đầu ra, tức là dựa vào sản phẩm, chiến lược, con người, kế hoạch kinh doanh của DN để cấp vốn. Ở ta thì chưa làm được. Tôi lo ngại chính sách tín dụng hiện hành đang vô tình biến DN thành người đi “kinh doanh bất động sản” để có tài sản thế chấp” - vị này bày tỏ.
Lý do là dù đã có chính sách cho vay dựa trên tài sản hình thành trong tương lai nhưng lại chủ yếu áp dụng cho các dự án bất động sản, còn các dự án startup dù tiềm năng vẫn nằm ngoài cuộc chơi. Do đó mong muốn NHNN, cơ quan nhà nước có hướng mở trong nguồn vốn, đặc biệt là cho DN vừa và nhỏ có dự án startup khả thi. Có thể xem xét đến việc cho ngân hàng hỗ trợ vốn dựa trên bảo lãnh tín nhiệm từ một đơn vị uy tín nào đó.
Đồng tình, ông Nguyễn Hoàng Hải, nguyên Phó Giám đốc Sở Tài chính TP.HCM, lấy ví dụ về game Flappy Bird - một tài sản vô hình trị giá hàng triệu đô la để cho thấy đã đến lúc cần có góc nhìn thông thoáng hơn trong việc cấp vốn, để mô hình vay vốn tín chấp không bị lãng quên.
Đi qua bốn bộ vẫn không được cấp phép
Nếu vốn là rào cản về nguồn lực thì những vướng mắc về thủ tục hành chính lại là “bức tường” vô hình bào mòn sức lực và cơ hội của DN. Câu chuyện của ông Lương Tấn Lợi, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc Công ty CP Sâm Việt Nam - Trà My Quảng Nam, là một minh chứng điển hình.
Ông Lợi đặt ra một câu hỏi thẳng thắn: “Nghị quyết 68 ra đời để tháo gỡ điểm nghẽn nhưng DN sẽ liên hệ với ai để được tháo gỡ tận gốc?”.
Ông Lợi dẫn chứng câu chuyện “dở khóc dở cười” của chính công ty mình. DN có một dự án xuất khẩu sâm Ngọc Linh sang thị trường Nhật Bản, một cơ hội lớn để đưa sản vật quốc gia vươn ra thế giới. Thế nhưng hành trình xin một tờ giấy phép lại trở thành một cuộc chạy marathon không có vạch đích.
“Công ty được các sở, ban ngành TP.HCM hướng dẫn lên cục, lên bộ. Chúng tôi đến hỏi Bộ Nông nghiệp thì được trả lời không cấp phép xuất khẩu, muốn xuất khẩu phải qua Bộ Công Thương. Khi chúng tôi qua tới Bộ Công Thương thì lại được trả lời ngược lại là thuộc thẩm quyền của Bộ Nông nghiệp” - ông Lợi kể lại.
Hành trình “gõ cửa” của DN tiếp diễn lòng vòng qua bốn bộ, ngành, mỗi nơi đều trình bày, giải thích cặn kẽ nhưng những gì họ nhận lại là sự chỉ dẫn chung chung, chưa có một cơ quan nào đứng ra chịu trách nhiệm và tháo gỡ cho DN. Đến nay chúng tôi vẫn chưa biết phải tìm đến đâu.
Tọa đàm “Loại bỏ những rào cản để kinh tế tư nhân phát triển theo Nghị quyết 68” có sự tham gia của chuyên gia kinh tế, TS Trần Du Lịch; TS Trần Quang Thắng, Viện trưởng Viện Kinh tế và quản lý TP.HCM; ông Nguyễn Hoàng Hải, nguyên Phó Giám đốc Sở Tài chính TP.HCM; ông Phạm Bình An, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM; TS Trần Quý, Viện trưởng Viện Phát triển kinh tế số Việt Nam; ThS Vũ Xuân Hưng, Trưởng phòng Pháp chế VCCI - Chi nhánh TP.HCM.
Cùng với đó là lãnh đạo của nhiều DN như đại diện Công ty CP Dược phẩm Pharmacity; ông Huỳnh Tấn Lộc, Giám đốc Công ty TNHH SkyBus, giám đốc các công ty Bình Tây Food, Thái Minh Hưng, bao bì Phước Thịnh, Natural House, Happy Nuts Việt Nam...
Không chỉ vướng mắc ở các thủ tục phức tạp, ngay cả những quy định tưởng chừng hợp lý cũng đang gây khó cho DN nhỏ. Ông Trần Lâm, Giám đốc Công ty TNHH Natural House, cho biết rào cản về mặt bằng sản xuất đang là một bài toán nan giải.
Quy định hiện hành buộc các DN có hoạt động sản xuất, dù quy mô nhỏ, phải đặt cơ sở trong khu công nghiệp (KCN). Theo ông Lâm, quy định này hợp lý về quản lý môi trường nhưng lại chưa phù hợp với thực tế của DN vừa và nhỏ. Với doanh thu khiêm tốn, họ không đủ năng lực tài chính để thuê những lô đất rộng hàng ngàn mét vuông với chi phí đắt đỏ trong các KCN. Nghịch lý này đang đi ngược lại chủ trương khuyến khích DN chuyển từ thương mại sang sản xuất để tạo ra giá trị bền vững.
Để “mưa rào” thấm đất, đừng để chính sách “chảy qua”
Trước những khó khăn của DN, bà Lê Thị Giàu, Chủ tịch HĐQT Bình Tây Food, ví von Nghị quyết 68 như một “cơn mưa rào” quý giá. Tuy nhiên, bà cho rằng để chính sách thực sự đi vào cuộc sống, cần có những giải pháp cụ thể.
Với DN siêu nhỏ và nhỏ, vốn là những nông dân mới tập kinh doanh, bà đề nghị Chính phủ nên có một khoảng thời gian “ân hạn” từ sáu tháng đến hai năm để họ thích nghi với các chính sách mới như đóng BHXH, nộp thuế.
“Theo tôi, cần có sự đoàn kết, lắng nghe giữa cán bộ và DN. DN phải có “lòng tự trọng”, làm đúng luật, còn cán bộ lạm dụng quyền hạn hay DN lợi dụng chính sách đều phải bị xử lý nghiêm minh. Như vậy chính sách mới đi vào cuộc sống tốt đẹp được” - bà Giàu nhấn mạnh.
Phân tích ở góc độ chuyên gia, TS Trần Du Lịch, chuyên gia kinh tế, cho rằng DN có thể tự nỗ lực giải quyết bài toán vốn và kinh doanh nhưng những rào cản về pháp lý, quy định thì họ không thể tự mình tháo gỡ. Đây là lúc vai trò “bà đỡ” của Nhà nước cần được thể hiện rõ nét.
Ông cũng gợi mở việc học hỏi mô hình từ Nhật Bản, nơi Nhà nước xây sẵn các nhà xưởng quy mô nhỏ cho DN thuê trong năm năm đầu. “Cách làm này giúp DN ổn định sản xuất ban đầu. Khi họ lớn mạnh, họ có thể tự tìm mặt bằng lớn hơn, nhường lại cơ hội cho DN mới” - ông Lịch nói.
“Suy cho cùng, một chính sách hỗ trợ tốt giống như một cơn mưa rào quý giá. Tuy nhiên, để “nước mưa” thật sự thấm sâu và nuôi dưỡng mảnh đất DN, cần phải có sự chuẩn bị đồng bộ về hạ tầng và cơ chế thực thi, nếu không thì chính sách sẽ khó phát huy hiệu quả, chỉ như nước chảy qua mà thôi” - TS Lịch chia sẻ.
Đặt doanh nghiệp vào trung tâm để phá bỏ rào cản
Là đơn vị tổ chức Tọa đàm “Loại bỏ rào cản để kinh tế tư nhân phát triển theo Nghị quyết 68”, ông Nguyễn Thái Bình, Phó Tổng Biên tập báo Pháp Luật TP.HCM, nhấn mạnh sự chuyển dịch tư duy, đặt kinh tế tư nhân vào vị thế động lực quan trọng nhất của nền kinh tế.
Nghị quyết 68 đặt mục tiêu mạnh mẽ: Cắt giảm ít nhất 30% thời gian, chi phí và điều kiện kinh doanh; chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Điểm then chốt là đặt DN vào trung tâm thiết kế chính sách, đòi hỏi vai trò chủ động hơn từ chính DN trong việc xác định rào cản.
“Tọa đàm là nơi DN lên tiếng, chuyên gia phân tích và cơ quan quản lý lắng nghe. Từ đó, các kiến nghị sẽ được tổng hợp, góp phần đưa chính sách vào cuộc sống, thúc đẩy sự phát triển thực chất cho khu vực kinh tế tư nhân” - ông Bình chia sẻ.
Cũng tại tọa đàm, ông Nguyễn Hoàng Hải, nguyên Phó Giám đốc Sở Tài chính TP.HCM, đã nêu ý kiến rằng nút thắt lớn nhất hiện nay chính là sự thiếu công bằng trong luật thuế giữa DN và hộ kinh doanh.
Để tháo gỡ điểm nghẽn này, ông cho rằng Nhà nước cần khẩn trương lắng nghe và điều chỉnh chính sách. Giải pháp không phải là ép buộc hộ kinh doanh nhỏ lẻ tự gánh vác công việc kế toán phức tạp, mà là tạo ra một hệ sinh thái hỗ trợ.
Cụ thể, cần thúc đẩy việc thành lập các đơn vị dịch vụ chuyên nghiệp với chi phí hợp lý để giúp họ dễ dàng tuân thủ pháp luật. Chỉ khi tháo gỡ được sự bất hợp lý này, tạo ra sự công bằng thực sự, chúng ta mới có thể tạo động lực mạnh mẽ cho kinh tế tư nhân phát triển bền vững.
Để doanh nghiệp tư nhân bứt phá: Cốt lõi nằm ở khâu thực thi
Hơn cả việc tiết kiệm tiền bạc và thời gian, hậu kiểm còn xây dựng một văn hóa kinh doanh trưởng thành hơn, nơi nhà nước tin tưởng trao quyền và doanh nghiệp nâng cao trách nhiệm tự tuân thủ.
Được xem là động lực quan trọng của kinh tế nhưng khu vực DN tư nhân vẫn đang “mắc kẹt” trong một ma trận thủ tục, chi phí tuân thủ và các rào cản vô hình. Để tạo ra cú hích thực sự cho DN bứt phá, cần một chiến lược tổng lực, thực chất. Các chuyên gia nhấn mạnh khâu đột phá nằm ở việc quyết liệt cắt giảm gánh nặng hành chính, xóa bỏ “giấy phép con” và chuyển đổi thành công sang cơ chế hậu kiểm hiệu quả.
TS TRẦN QUANG THẮNG, Viện trưởng Viện Kinh tế và quản lý TP.HCM:
Cốt lõi hiện nay nằm ở khâu thực thi
Khu vực kinh tế tư nhân đang đối mặt với hàng loạt áp lực cố hữu: Thiếu vốn, quản trị yếu, ngại đổi mới sáng tạo, liên kết chuỗi giá trị kém và nguồn nhân lực chưa đáp ứng. Đáng nói, dù Nhà nước có nhiều chính sách hỗ trợ, không ít DN, đặc biệt là DN nhỏ và siêu nhỏ, vẫn loay hoay vì khó tiếp cận. Đây chính là những rào cản hữu hình đang kìm hãm khu vực kinh tế này.
Để tháo gỡ các điểm nghẽn, cần một chiến lược tổng thể thay vì các giải pháp riêng lẻ. Nền tảng cho chiến lược này là sự cộng hưởng của bốn trụ cột đã được các nghị quyết của Đảng vạch ra: Thúc đẩy khoa học công nghệ - đổi mới sáng tạo, hội nhập quốc tế sâu rộng, đổi mới xây dựng pháp luật và lấy kinh tế tư nhân làm trọng tâm. Sự kết hợp này sẽ tạo cú hích tổng lực, cải thiện môi trường kinh doanh.
Trên nền tảng đó, cần triển khai các giải pháp đột phá, thực chất. Về pháp lý - hành chính, phải quyết liệt giảm rào cản, không hình sự hóa quan hệ kinh tế và cắt giảm 30% thời gian giải quyết thủ tục. Về tài chính, cần cải cách thị trường vốn, thúc đẩy quỹ bảo lãnh tín dụng cho DN nhỏ và vừa, triển khai tín dụng xanh.
Đặc biệt, chính sách cho phép DN tính 200% chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D) vào chi phí được trừ là đòn bẩy quan trọng để khuyến khích sáng tạo.
Với hệ sinh thái khởi nghiệp, cần mở rộng không gian thử nghiệm pháp lý (sandbox) cho các startup công nghệ, đồng thời đẩy mạnh quỹ đầu tư mạo hiểm để khơi thông dòng vốn. Đối với hộ kinh doanh, việc chuyển đổi sang hóa đơn điện tử từ máy tính tiền và xóa bỏ thuế khoán là bước đi cần thiết để minh bạch hóa môi trường kinh doanh.
Dù Nhà nước đã có nhiều giải pháp, vấn đề cốt lõi hiện nay nằm ở khâu thực thi. Chỉ khi thủ tục hành chính được đơn giản hóa, minh bạch và các chính sách hỗ trợ đến đúng tay DN nhỏ và siêu nhỏ, kinh tế tư nhân mới thực sự có một môi trường thuận lợi để phát triển đột phá.
ThS VŨ XUÂN HƯNG, Trưởng phòng Pháp chế Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - TP.HCM (VCCI - HCM):
Để cắt giảm 30% thủ tục, cần xóa bỏ giấy phép con, minh bạch mọi điều kiện
Mục tiêu cắt giảm 30% thời gian, chi phí thủ tục đã có nhưng gánh nặng vẫn đè nặng DN với những con số đáng báo động. Cần những giải pháp cấp bách, cụ thể để mệnh lệnh cải cách thực sự đi vào cuộc sống.
Những con số từ một cuộc khảo sát đã chỉ ra gánh nặng tuân thủ vẫn còn rất lớn. Một DN vẫn phải tốn gần 24% quỹ thời gian chỉ để lo thủ tục pháp lý. Hai “nỗi ám ảnh” lớn nhất là đất đai và thuế, phí. Đáng lo ngại, gần 37% DN thừa nhận phải trả chi phí không chính thức và 67% cảm thấy nhũng nhiễu là phổ biến. Dù không phải khó khăn hàng đầu, thủ tục hành chính vẫn là một rào cản hữu hình.
Từ thực trạng này, một công thức rà soát các văn bản quy phạm pháp luật đã được đề xuất, dựa trên bốn tiêu chí cốt lõi: Minh bạch (dễ hiểu, không sơ hở), thống nhất (đồng bộ với cam kết quốc tế), khả thi (phù hợp thực tiễn) và hợp lý (DN thực hiện được).
Đặc biệt, cần có hành động cấp bách để hỗ trợ DN nhỏ, siêu nhỏ và thúc đẩy khởi nghiệp. Các giải pháp đột phá được đề xuất gồm: Triển khai ngay gói tín dụng ưu đãi; dành 5%-10% quỹ đất khu công nghệ cao cho startup thuê giá rẻ; mở rộng mô hình thử nghiệm pháp lý (sandbox) trên toàn quốc và xây dựng các trung tâm tư vấn pháp lý miễn phí hoặc trợ giá.
Để hiện thực hóa “mệnh lệnh 30%”, công thức được vạch ra rất cụ thể. Thứ nhất, muốn giảm thời gian, phải số hóa dịch vụ công, rút gọn quy trình, nâng cao năng lực cán bộ. Thứ hai, muốn giảm chi phí, phải loại bỏ quy định không cần thiết, chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Thứ ba, muốn giảm điều kiện kinh doanh, phải xóa bỏ “giấy phép con”, công khai, minh bạch mọi điều kiện.
Nền tảng cho tất cả điều này là sự hợp tác chặt chẽ giữa Nhà nước và DN, ứng dụng công nghệ và một cơ chế rà soát pháp luật thường xuyên.
TS TRẦN QUÝ, Viện trưởng Viện Phát triển kinh tế số Việt Nam:
Chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, cởi trói cho doanh nghiệp
Chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm đang là chủ trương quyết liệt, một xu thế tất yếu trên toàn cầu mà Việt Nam đang mạnh mẽ theo đuổi để kiến tạo môi trường kinh doanh thực sự thông thoáng.
Chủ trương chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm, từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm” đã được các cấp lãnh đạo cao nhất khẳng định như một quyết tâm chính trị dứt khoát. Mục tiêu cốt lõi là giải phóng DN khỏi những gánh nặng thủ tục, tạo động lực cho kinh tế tư nhân phát triển. Lợi ích là vô cùng to lớn và đã được chứng minh.
Bài học từ việc thay đổi trong quản lý an toàn thực phẩm theo Nghị định 15/2018/NĐ-CP là một ví dụ, sự thay đổi trong tư duy quản lý này đã giúp giảm trên 90% chi phí hành chính, tiết kiệm khoảng 3.700 tỉ đồng mỗi năm. Hay như việc Bộ KH&CN chuyển 91% nhóm sản phẩm sang hậu kiểm đã giúp DN thoát khỏi vô số thủ tục rườm rà. Hơn cả việc tiết kiệm tiền bạc và thời gian, hậu kiểm còn xây dựng một văn hóa kinh doanh trưởng thành hơn, nơi Nhà nước tin tưởng trao quyền và DN nâng cao trách nhiệm tự tuân thủ.
Tuy nhiên, con đường chuyển đổi này không hề bằng phẳng. Rủi ro lớn nhất chính là nguy cơ chính sách bị lợi dụng nếu cơ chế giám sát yếu kém. Các công ty “ma” có thể lợi dụng kẽ hở để mua bán hóa đơn, trốn thuế, rửa tiền, gây thất thu ngân sách hàng chục ngàn tỉ đồng và làm méo mó môi trường cạnh tranh. Hậu kiểm không có nghĩa là buông lỏng quản lý, mà ngược lại, nó đòi hỏi năng lực của cơ quan nhà nước phải cao hơn, phức tạp hơn. Thách thức lớn nhất chính là cuộc cách mạng trong tư duy, chuyển từ chờ DN mắc lỗi để xử phạt sang cảnh báo để DN không mắc lỗi.
Để cuộc cải cách này thực sự hiệu quả và đi vào thực chất, một chiến lược đồng bộ gồm năm trọng tâm được đề xuất.
Một là, phải khẩn trương hoàn thiện một khung pháp lý vững chắc về hậu kiểm, trong đó xác định rõ các tiêu chí đánh giá rủi ro, quy trình và chế tài đủ sức răn đe.
Hai là, phải đổi mới căn bản tư duy và phương thức quản lý của cơ quan nhà nước, quyết liệt chuyển sang tư duy phục vụ, hỗ trợ.
Ba là, công nghệ là lời giải không thể thiếu. Cần đầu tư xây dựng các hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia đồng bộ, kết nối được với nhau, đồng thời ứng dụng mạnh mẽ dữ liệu lớn (big data) và trí tuệ nhân tạo (AI) để phân tích rủi ro, giúp xác định đúng đối tượng cần kiểm tra, tránh việc kiểm tra tràn lan gây phiền hà cho các DN làm ăn chân chính.
Bốn là, cần có cơ chế thưởng - phạt nghiêm minh, công bằng. Các DN có lịch sử tuân thủ tốt cần được hưởng cơ chế ưu đãi như giảm tần suất kiểm tra, trong khi các hành vi vi phạm phải bị xử lý kịp thời. Song song đó, phải quy trách nhiệm rõ ràng cho cán bộ nếu buông lỏng quản lý.
Cuối cùng, phải phát huy tối đa vai trò giám sát của xã hội, của các hiệp hội DN và truyền thông, tạo thành một cơ chế hợp tác công - tư chặt chẽ để kịp thời phát hiện và điều chỉnh những bất cập.
Năm giải pháp này không thể tách rời mà là một hệ sinh thái hoàn chỉnh. Một khung pháp lý tốt sẽ trở nên vô nghĩa nếu tư duy và năng lực của người thực thi không thay đổi.•