Đó là một trong những nội dung tại Thông tư 16/2021 do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa ban hành quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua bán trái phiếu doanh nghiệp (TPDN).
Một trong những nội dung đáng chú ý nhất của Thông tư là tổ chức tín dụng chỉ được mua TPDN khi tổ chức tín dụng đó có tỉ lệ nợ xấu dưới 3% tại kỳ phân loại gần nhất theo quy định của NHNN về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động đối với tổ chức tín dụng trước thời điểm mua TPDN.
Ngoài ra, thông tư cũng qui định tổ chức tín dụng không được mua TPDN trong đó có mục đích để cơ cấu lại các khoản nợ của chính doanh nghiệp phát hành; không được mua TPDN phát hành trong đó có mục đích để góp vốn, mua cổ phần tại doanh nghiệp khác; không được mua TPDN phát hành trong đó có mục đích để tăng quy mô vốn hoạt động.
Bên cạnh đó, tổ chức tín dụng chỉ được mua TPDN khi TPDN đáp ứng theo quy định và mục đích sử dụng tiền thu từ phát hành trái phiếu của doanh nghiệp hợp pháp và phù hợp với phương án phát hành trái phiếu hoặc phương án sử dụng vốn, số tiền thu được từ đợt chào bán, đợt phát hành được phê duyệt theo quy định của pháp luật.
Tổ chức tín dụng cũng không được bán TPDN cho công ty con của chính tổ chức tín dụng đó, trừ trường hợp tổ chức tín dụng là bên nhận chuyển giao bắt buộc bán TPDN cho ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được mua trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền.
Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 15/1/2022, việc ban hành Thông tư này là một trong những biện pháp mà các cơ quan quản lý thực hiện nhằm tăng cường giám sát việc tổ chức tín dụng giao dịch TPDN.
Theo thông tin từ Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam, trong 10 tháng đầu năm 2021, có tổng cộng 723 đợt phát hành TPDN trong nước. Trong đó có 705 đợt phát hành riêng lẻ với tổng giá trị 422.450 tỉ đồng (chiếm 96% tổng giá trị phát hành), 18 đợt phát hành ra công chúng giá trị 15.550 tỉ (chiếm 4% tổng giá trị phát hành) và 4 đợt phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế tổng giá trị 1,425 tỷ USD.
Trong 10 tháng đầu năm, nhóm bất động sản đang dẫn đầu với tổng giá trị phát hành đạt 163,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 37,4%. Trong đó có khoảng có khoảng 27,56% giá trị trái phiếu phát hành không có tài sản bảo đảm hoặc bảo đảm bằng cổ phiếu. Lãi suất phát hành dao động trong khoảng 5,2-13%/năm.
Nhóm ngân hàng đứng ở vị trí thứ 2 với tổng khối lượng phát hành 149.100 tỉ đồng, có 34.100 tỉ đồng trái phiếu tăng vốn cấp 2 (chiếm 22,8%), 75% trái phiếu phát hành kỳ hạn ngắn 2-4 năm.
Trong 10 tháng đầu năm, có 4 đợt phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế gồm: Tập đoàn Vingroup (500 triệu USD), trái phiếu xanh của Công ty bất động sản BIM (200 triệu USD), trái phiếu chuyển đổi của Novaland (300 triệu USD) và VinPearl (425 triệu USD).
Theo ý kiến từ chuyên gia Bộ Tài chính, thị trường TPDN còn một số vấn đề như phần lớn tài sản đảm bảo của trái phiếu là bất động sản, dự án hình thành trong tương lai hoặc cổ phiếu doanh nghiệp, giá trị của tài sản đảm bảo chịu ảnh hưởng diễn biến của thị trường.
Một số trường hợp chưa tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật về nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp khi mua TPDN phát hành riêng lẻ; có doanh nghiệp phát hành với khối lượng lớn gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu…