Tập đoàn Intel công bố việc hợp tác lần đầu tiên trên thế giới với CSIRO – cơ quan khoa học quốc gia của Úc. Thông qua sự hợp tác này, công nghệ Intel sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc theo dõi tình trạng sức khỏe của loài ong mật nhằm đảm bảo nguồn cung cấp lương thực ổn định cho toàn cầu.
Bộ bo mạch Intel Edison Breakout, một nền tảng điện toán có khả năng tùy chỉnh, với kích cỡ chỉ nhỉnh hơn một con tem bưu điện, sẽ được CSIRO phân phối đến các đối tác nghiên cứu khắp toàn cầu dưới dạng một bộ công cụ vi cảm biến theo dõi loài ong.
Các bộ cảm ứng có cách thức hoạt động tương tự như thẻ định dạng E-Tag của các phương tiện giao thông, thẻ sẽ ghi nhận lại thông tin khi một con ong bay ngang qua bo mạch Intel Edison. Dữ liệu thu được sẽ cung cấp những thông tin giá trị cho những người nuôi ong, các chủ trang trại, các tập đoàn công nghiệp và chính phủ. Những thông tin này sẽ cho chúng ta biết giải pháp tốt nhất để bảo vệ sức khỏe cho loài ong mật, chủng loại mà nhờ đó con người có thể thụ phấn cho 1/3 lượng thực phẩm mà chúng ta tiêu thụ.
Ông David Mellers, Giám đốc Kinh doanh Giải pháp Doanh nghiệp của Intel tại Úc và New Zealand cho biết: “Gordon Moore, nhà đồng sáng lập ra Intel, đã dự đoán số lượng các bóng bán dẫn/ điện trở chuyển (transistors) trên một con chip máy tính sẽ gia tăng số lượng gấp đôi mỗi năm. Dự doán này đã trở thành động lực thúc đẩy cho toàn ngành công nghệ, cho phép chúng ta liên tục thu nhỏ kích cỡ công nghệ và biến công nghệ trở nên ngày càng tiết kiệm năng lượng. Mặt khác, định luật này cũng giúp chúng ta suy ngẫm lại những lĩnh vực nào và trong tình huống nào có thể ứng dụng công nghệ điện toán. Định luật Moore không chỉ mở đường cho sự thay đổi về công nghệ, nó còn tạo ra giá trị kinh tế to lớn và sự phát triển vượt bậc của xã hội, và việc ứng dụng công nghệ trong dự án GIHH đã chứng minh cho nhận định này.”
Giáo sự Paulo de Souza, Trưởng nhóm nghiên cứu khoa học của CSIRO cho biết: “Các tổ ong đang dần tan rã trên toàn thế giới và chúng tôi không biết lý do vì sao. Do tính cấp bách và mức độ phổ biến của vấn đề này, chúng tôi nhận thấy nhu cầu cần phải phát triển một phương pháp nghiên cứu mà bất kỳ nhà khoa học nào cũng có thể dễ dàng sử dụng. Bằng cách này, chúng tôi có thể chia sẻ và so sánh dữ liệu thu được trên khắp thế giới để cùng nhau nghiên cứu về sức khỏe của loại ong. Nỗ lực cộng đồng này là một ví dụ tuyệt vời cho thời đại Internet của vạn vật.”