Mới đây, UBND huyện Tuyên Hóa (Quảng Bình) đã phối hợp với Sở VH-TT&DL làm thủ tục tiếp nhận 3 đồng tiền vàng của bà Nguyễn Thị Liên (trú tại thôn Tân Sơn - Sơn Hóa - Tuyên Hóa).
Trước đó, con dâu bà Liên khi đi qua khe nước Trọt Su gần nhà và phát hiện 3 đồng tiền nằm cạnh dòng nước. Gia đình đưa đi thử tại tiệm vàng Kim Hoàn (thành phố Đồng Hới) thì biết những đồng tiền đó có hàm lượng vàng tới 999,9%, mỗi đồng vàng nặng 5 chỉ. Hai đồng tiền vàng có đường kính 2,8cm, riêng đồng còn lại có đường kính 2,4cm. Một mặt đồng tiền có tiết họa mặt trời, còn mặt kia có in 4 chữ Hán “Hàm Nghi Thông Bảo”. Có thể đây là một trong những đồng tiền vàng được vua Hàm Nghi mang theo trong cuộc kháng Pháp thực hiện chiếu Cần Vương vào năm 1885. Sau khi tiếp nhận cổ vật, UBND tỉnh đã trao tiền thưởng 3,5 triệu đồng cho gia đình bà Liên.
Tác giả và Nguyễn Hồng Công (bên trái) trước ngôi lán tại vùng núi đào kho báu.
Hư thực xung quanh việc có hay không vua Hàm Nghi giấu vàng ở Quảng Bình vẫn đang là điều hoàn toàn bí ẩn. Những thông tin đó cũng chỉ được xem như những câu chuyện huyền thoại về kho vàng vua Hàm Nghi...
Mùa hè năm 1982, người dân Hóa Sơn thấy xuất hiện người đàn ông nói giọng Bắc lơ lớ ở bản mình. Cũng chẳng ai tò mò làm gì bởi lúc đó người lạ mặt vào trú tại bản để mua bán trầm hương cứ loạn xị cả lên. Trước lạ sau quen, người này cứ ăn, ở, chơi với dân bản hàng năm trời. Khi có công an đồn Quy Đạt vào kiểm tra hộ khẩu thì anh này được dân bản đưa lên trú trên rừng. Công an rút, lại về bản ở...
Người đàn ông đó là Nguyễn Hồng Công. Anh Công sinh năm 1952, là con trai thứ hai trong một gia đình nông dân ở xã Hải Thượng (huyện Tĩnh Gia - Thanh Hóa). Trước khi dấn thân vào cuộc săn tìm kho báu, anh là sĩ quan của một đồn biên phòng thuộc tỉnh Long An.
Một hầm đào xuyên vào núi sâu hơn 20m mà Nguyễn Hồng Công đang đào.
Biến cố bẻ lệch đời anh diễn ra vào mùa hè năm 1982. Khi đó, Nguyễn Văn Luật, anh trai của Công, là thủy thủ tàu viễn dương, sau một chuyến đi công tác nước ngoài có cầm về một tấm bản đồ nghi là bản đồ vị trí kho báu vua Hàm Nghi. Chi tiết về tấm bản đồ này, Nguyễn Hồng Công “xin phép không tiết lộ”, nhưng theo anh thì đường đi nước bước và vị trí của nó đã được hướng dẫn rõ trong một cuốn gia phả, bằng cách nào đó, anh cũng đã nắm trong tay.
Tận dụng những ngày nghỉ phép năm đó, Công đã có mặt tại rừng núi Hóa Sơn (Minh Hóa - Quảng Bình) để “thu mua trầm hương” – như anh nói – nhưng thật ra là để phiêu lưu “ngậm ngải tìm trầm”. Trong khi sục sạo trong vùng núi Mã Cú, tình cờ, Nguyễn Hồng Công tìm được một cục đá hình dạng giống như chiếc đầu lâu, một mặt có khắc chữ “Vương”, dấu vết y hệt như trong tấm bản đồ mà anh đang sở hữu.
Bãi đất đá do đào hầm vàng đổ ra tại vùng Mã Cú
Tò mò là chính, Nguyễn Hồng Công bỏ mấy ngày trời rà soát và phát hiện ra khá nhiều điều ngẫu nhiên có vẻ trùng hợp và thú vị. Ngọn núi nơi anh tìm ra cục đá có tên là Mã Cú hoặc Yên Ngựa, dưới chân núi có một gò đất rộng, khá bằng phẳng gọi là “Động Quân Áp”, tương truyền là nơi cắm trại của đoàn hộ giá nhà vua. Tại đó, có một hòn đá rất to bị mòn vẹt một bên, dân địa phương bảo là “do hàng trăm quân lính mài gươm nên mới vẹt đi”. Từ hòn đá này, Nguyễn Hồng Công dễ dàng tìm thấy những cây lim xẹt, cây đa, cây bồ kết... cổ thụ mọc bên dòng suối chảy dưới chân núi mà theo anh thì tấm bản đồ và cuốn gia phả đã ghi rất rõ.
Chưa hết, câu chuyện về việc tình cờ tìm thấy kho báu vua Hàm Nghi năm 1956 tại Hóa Sơn vẫn còn được các bô lão nhắc lại, một số cán bộ, nhà nghiên cứu mà Nguyễn Hồng Công tìm đến hỏi cũng không phủ nhận. Vậy là Nguyễn Hồng Công lập tức xin xuất ngũ và bắt tay ngay vào cuộc săn lùng kéo dài hết toàn bộ thời trai trẻ.
Ban đầu, để tránh bị người dân địa phương phát hiện, Nguyễn Hồng Công chỉ đào bới một mình. Ngày đào, đêm nghỉ, 5 năm ròng rã. Thay vì tìm được vàng ròng bạc nén, Công khẳng định đã tìm ra được... quy luật xây dựng của kho báu.
Nguyễn Hồng Công trong một đường hầm đào tìm vàng vào năm 1995.
Theo anh, toàn bộ kho báu được bố trí trên một mặt nghiêng hình chữ nhật sắp dài theo triền núi, dài 100m, rộng 50m. Dấu hiệu khởi đầu kho báu là dấu son ở gốc cây lim xẹt, từ đó đi về phía con suối sẽ bắt gặp hòn đá hình đầu lâu. Ba giao điểm của chữ “Vương” (gồm 3 nét ngang, một nét sổ) chính là 3 cửa của kho báu. Giao điểm chính giữa là “cống thoát nước”, nét sổ chính là con suối, người xưa dùng suối nước để ngụy trang cho hầm báu vật. Muốn mở hầm kho báu, theo anh việc dứt khoát phải làm là tháo hết... các mạch nước tự nhiên chảy ngầm trong núi!
Nhưng rồi, chính quyền tỉnh Bình Trị Thiên (cũ) đã dứt khoát trục xuất kẻ đào núi không giấy phép Nguyễn Hồng Công ra khỏi Hóa Sơn. Không cam tâm bỏ dở “sự nghiệp”, Nguyễn Hồng Công đã gom hết tài liệu, tư liệu, làm tờ trình gửi lên Bộ Văn hóa - Thông tin (cũ) rồi thuyết phục tất cả các cơ quan hữu trách của tỉnh Bình Trị Thiên (cũ) để xin cho được giấy phép săn lùng kho báu.
Một đường hầm mà nguyễn Hồng Công đào cách đây 14 năm.
Có vẻ như những tài liệu mà anh đưa ra có một sức thuyết phục cao cho nên năm 1987, Công đã nắm trong tay tấm giấy phép do UBND tỉnh Bình Trị Thiên cấp. Với tấm giấy phép này, Nguyễn Hồng Công đã thuyết phục được mọi người góp “cổ phần” để bắt tay vào cuộc khai quật công khai và có quy mô. Hè năm 1987, hàng tấn máy móc, hàng chục con người, đã rầm rập theo Nguyễn Hồng Công về Hóa Sơn xẻ núi.
Sau nhiều tháng xới bay cả núi, tiền hết, xăng dầu cạn, kho báu vẫn bặt vô âm tín. Chán nản, các “cổ đông” lần lượt tháo máy, rút quân, còn lại một mình Nguyễn Hồng Công tiếp tục cuộc tìm kiếm mà anh tin chắc “thành công đã hiện ra trước mắt”.
(Theo GDVN)