Chính tên gọi “Lầu May” đặt ngay trước cửa chiếc cầu thang đã gợi lên những điều xưa cũ. Sau cánh cửa chật hẹp đủ để bê lọt một chiếc bàn may là chiếc cầu thang với bức tường loang lổ những đốm úa vàng. Đặt chân đến lầu, những dãy bàn may liền kề nhau hiện ra, phía trên trần là những tấm biển mang đậm “thương hiệu” của người dân xứ Huế như O Tằm, Bác Thể…
Những người thợ phần lớn ở đội tuổi từ 50 đến 80 đang cặm cụi đạp chiếc bàn may, tiếng lạch cạch đều đặn phát ra. Giữa không gian mang màu cổ kính ấy làm tôi liên tưởng đến hình ảnh khu nhà xưởng ngày xưa mà mình từng được thấy qua chiếc tivi đen trắng cũ kỹ.
Ở một gốc xa, một cụ ông lớn tuổi, tay vuốt sợi chỉ nhỏ xíu để luồn vào kim được gắn trên chiếc bàn may. Ông là Nguyễn Văn Chúc (88 tuổi, ở phường Thuận Hòa), hiện là người lớn tuổi nhất ở lầu may. Ông may mặc nơi đây từ ngày lầu may mới hình thành. Qua chừng ấy thời gian dường như ông Chúc đã nếm đủ vị ngọt - đắng của cái nghề này.
Ông khiến tôi ngạc nhiên vì đầu óc minh mẫn, có thể kể vanh vách những khoảng thời gian, tên tuổi những người đi trước. Đối với những người ở độ tuổi này thường mắt sẽ bị mờ dần, tay chân bắt đầu run rẩy nhưng với ông Chúc việc xâu kim, hay dùng chân đạp đều đặn chiếc máy may mỗi ngày từ sáng sớm đến chiều tà là điều quá đỗi bình thường.
- Ông tính tiếp tục may vá đến lúc nào? - Tôi hỏi.
- Đến lúc mắt mờ, tai lãng và bàn chân không còn sức để đạp được nữa thì tôi sẽ nghỉ. - Ông trả lời.
- Con cháu của ông có phàn nàn về điều này?
- Tôi đã có chắt kêu bằng cố rồi - ông cười rồi nói tiếp:Bọn nó suốt ngày kêu nghỉ đi vì già rồi, với lại mọi việc ăn uống trong gia đình đã có con cái nó lo cả rồi có cần gì nữa đâu. Nhưng tôi không bỏ được, thỉnh thoảng có đau ốm gì mà ở nhà là có cảm giác nhớ. Mà nói thật, dù không còn lo lắng kinh tế trong nhà nữa nhưng giờ mình còn làm được đồng tiền thì cứ làm thôi, thích tiêu gì thì tiêu khỏi phải dựa vào con cháu.
Đang trò chuyện, một chị lớn tuổi ngồi cách khoảng ba bàn may hỏi: “Có người đặt may ba chiếc áo dài khoảng bảy ngày lấy, ông có nhận được không?”. Ông Chúc lắc đầu vì cho rằng bảy ngày không đủ để hoàn thành ba cái áo dài này. “Những loại áo dài này rất khó may, tốn nhiều thời gian để một chiếc áo được đẹp chứ không vì cái lợi mà mình làm ẩu được”, ông Chúc nói.
Đến lúc mắt mờ, tai lãng và bàn chân không còn sức để đạp được nữa thì tôi sẽ nghỉ |
Ông Nguyễn Văn Chức |
Khi công nghệ ngày càng phát triển, những chiếc bàn may hiện đại ra đời để giải phóng sức lao động của người dân. Tuy nhiên, một điều lạ là ở nơi đây, dường như đã bỏ qua mọi thay đổi bên ngoài, nhiều chiếc bàn may cũ kỹ vẫn đang được sử dụng hàng ngày.
Bà Phan Thị Vân (69 tuổi, ở đường Lê Huận) đã gắn với nghề may vá từ lúc 20 tuổi, bà cho rằng chiếc bàn may này nó gắn liền với những niềm vui, nỗi buồn của chính cuộc đời mình. Bà Vân tâm sự: “Thời trước, ngoài những người gạo cội thì lầu may có rất nhiều người trẻ tuổi, có người ở độ 15, 20 cũng tham gia may mặc. Lúc ấy, khách đến may đông, mọi thứ như chén cơm, khúc cá đều nhờ vào nó cả nên ai cũng hăng say bất chấp thời tiết thế nào đi nữa”.
“Chúng tôi ở đây ai cũng hành nghề trên dưới 50 năm cả nên từ những cái khó đến dễ chúng tôi đều may được. Thường ngày nếu du lịch đến đặt may chúng tôi đều đáp ứng được. Lợi thế của chúng tôi là có những người may giỏi các trang phục truyền thống, những lá cờ làng, cờ lễ hội,… mà nhiều nhà may khác không thể may được”, bà Tằm nói.
Trải qua 43 năm từ ngày lầu may được hình thành, những người thợ ở đây đã xem nhau như người trong gia đình. Đã có những lần họ cùng nhau mừng mừng tủi tủi khi hay tin con của một thợ may đỗ đại học, rồi có ngày lại buồn đau vì phải chia tay một người lớn tuổi bỏ lại chiếc bàn may để về với đất.
Ở đây là thế, dường như chính cái khốn khó, đồng cảm đã gắn kết họ lại với nhau. Rồi tại lầu may này đã chứng kiến mối tình của anh thợ may Trương Văn Thảo (45 tuổi) và chị Nguyễn Trần Tiểu Bích (lúc đó lên lầu may để học nghề). Họ đến với nhau bằng cái duyên mà mọi người vẫn hay nói đùa rằng chính những cây kim, sợi chỉ là người mai mối.
Hiện họ đã có với nhau bốn người con. Hai đứa lớn đã đến trường. Một đứa nhỏ bốn tuổi đi theo anh chị đến lầu may mỗi ngày, đứa út thì được gửi nhà trẻ. Nhà cách lầu may khoảng 10km nên mỗi sáng anh chị chuẩn bị đầy đủ cho các con rồi chở chúng đến lầu may. Khi công việc kết thúc, anh chị dọn dẹp bàn may rồi tất cả cùng lên xe trở về nhà. Lầu may như là nhà của hai vợ chồng, còn nhà chỉ như là nhà trọ để ngủ nghỉ sau một ngày dài vất vả.
Khi hỏi về những vất vả của nghề này, anh Thảo mở lòng tâm sự: Thu nhập là vấn đề khó khăn đối với hai vợ chồng. Công việc phụ thuộc vào khách hàng, khách đến thì có may không thì thôi. Mỗi ngày anh chị thường nhận sửa những cái quần, áo bị lỗi với giá chưa đầy 20 ngàn đồng. Mỗi tháng hai vợ chồng chỉ kiếm được hơn 3 triệu, chắt bóp mới đủ chi phí cho gia đình.
Anh Thảo chỉ tay về đứa nhỏ đang chạy chơi xung quanh lầu may, bảo: “Nó là Hùng, là con trai thứ ba của anh chị”. Hùng trên tay cầm đồ chơi hình con cá sấu bị gãy một chân, chạy quanh những chiếc bàn may vui đùa cùng mọi người. Thấy ba mẹ đang nói chuyện với người lạ, Hùng chạy đến ôm chầm, thì thầm vào tai chuyện gì đó khiến hai vợ chồng nhìn nhau cười, rồi anh chị tiếp tục công việc.