Ngày 29-11, Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết 30-NQ/TW (ngày 23-11-2022) của Bộ Chính trị khóa XIII về Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở vùng Đồng bằng sông Hồng đã được tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến tại các điểm cầu.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì và phát biểu chỉ đạo hội nghị. Đồng chủ trì có các ủy viên Bộ Chính trị: Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Thường trực Ban bí thư Võ Văn Thưởng.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại hội nghị sáng 29-11. Ảnh: CP |
Phải phát huy vai trò vùng động lực phát triển hàng đầu
Xuất phát từ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của vùng Đồng bằng sông Hồng, từ năm 2005 và năm 2011, Bộ Chính trị khóa IX, XI đã ban hành các nghị quyết, kết luận phát triển vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2010 và thời kỳ 2011-2020.
Tuy nhiên, báo cáo tại hội nghị cho biết đến nay vùng Đồng bằng sông Hồng vẫn còn một số mặt hạn chế. Cụ thể, kinh tế - xã hội phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế vượt trội và vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của vùng. Theo đó, quy mô kinh tế còn nhỏ, các ngành sản xuất với công nghệ hiện đại chiếm tỉ lệ thấp, chưa tạo được tiền đề cho sự phát triển nhanh và bền vững hơn nữa.
Từ thực tế đó đặt ra yêu cầu phải ban hành nghị quyết mới, góp phần tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ, có tính đột phá trong giai đoạn phát triển mới.
Tại hội nghị, sau khi nghe các ý kiến đại diện cho các ban, bộ, ngành trung ương và địa phương, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu nêu rõ những ý tưởng mới, tinh thần mới, nội dung mới của nghị quyết. Theo đó, có ba điểm đáng chú ý, cụ thể:
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh cán bộ, nhân dân các địa phương vùng Đồng bằng sông Hồng cần phải có ý chí và quyết tâm cao hơn nữa, quyết vươn lên làm cho bản thân, gia đình và quê hương, đất nước giàu mạnh, tốt đẹp hơn, dẫn đầu cả nước.
Một là, nghị quyết mới đã kế thừa, bổ sung, phát triển thành năm quan điểm chỉ đạo quan trọng và mới mẻ, sát hợp với tình hình mới.
Nghị quyết tiếp tục xác định vùng Đồng bằng sông Hồng là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước.
Hai là, về mục tiêu, có thể xem đây là nội dung hoàn toàn mới. Nghị quyết lần này đã xác định rất rõ mục tiêu tổng quát và một số chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Ba là, nghị quyết đề ra đầy đủ, đồng bộ các giải pháp đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, bao gồm các nhiệm vụ, giải pháp về hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển và đẩy mạnh liên kết vùng...
Từ đó, Tổng bí thư chỉ đạo các địa phương trong vùng cần phải bám sát các chủ trương, đường lối của Đảng, khai thác, sử dụng có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế vượt trội; phát huy thật tốt vai trò là vùng động lực phát triển hàng đầu để định hướng, dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phát triển vùng phải phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, thống nhất với Quy hoạch tổng thể quốc gia, phù hợp với chiến lược phát triển bền vững, chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược biển, tăng trưởng xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu quốc gia.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy liên kết và thể chế điều phối phát triển vùng đủ mạnh, thiết thực, hiệu quả; tăng cường liên kết nội vùng, liên vùng...
Vùng Đồng bằng sông Hồng cần phải đi đầu trong việc ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế số, xã hội số; phát huy mạnh hơn nữa truyền thống lịch sử văn hiến, cách mạng, anh hùng để phát triển hài hòa giữa chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Phát triển kinh tế đi đôi với bảo đảm an sinh xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, bảo đảm công bằng xã hội.
Coi trọng công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đề cao trách nhiệm nêu gương, bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung...
Tổng thu ngân sách vùng chiếm gần 33% cả nước
Theo báo cáo tại hội nghị, qua 17 năm thực hiện nghị quyết và kết luận của Bộ Chính trị các khóa IX và XI, quy mô kinh tế của vùng Đồng bằng sông Hồng luôn luôn được mở rộng; tỉ trọng đóng góp vào GDP cả nước tăng từ 26,9% năm 2010 lên 29,4% năm 2020.
Thu nhập bình quân đầu người cao hơn 1,3 lần so với bình quân chung cả nước. Tổng thu ngân sách nhà nước của vùng chiếm tới 32,7% tổng thu ngân sách cả nước, tốc độ tăng thu bình quân là 16,7%/năm.
Tổng vốn đầu tư xã hội gấp 19,7 lần năm 2005 và chiếm 35,1%, đứng đầu cả nước. Số lượng đô thị vùng tăng nhanh, tỉ lệ đô thị hóa của vùng đến năm 2021 đạt 41%.
Từng địa phương phải vượt lên chính mình
Về mục tiêu, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh phải phấn đấu đến năm 2030, vùng Đồng bằng sông Hồng phát triển nhanh, bền vững, có cơ cấu kinh tế hiện đại, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc; tập trung phát triển công nghiệp, dịch vụ hiện đại và nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn; trở thành trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của cả nước; đi đầu về phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số; có hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại và hệ thống đô thị thông minh, kết nối...
Đến năm 2045, Đồng bằng sông Hồng là vùng phát triển hiện đại, văn minh, sinh thái; là trung tâm hàng đầu của cả nước về giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, thông minh và một số trung tâm kinh tế, tài chính lớn mang tầm khu vực và thế giới.
Về nhiệm vụ và giải pháp, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ nghị quyết lần này đề ra đầy đủ, đồng bộ các giải pháp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, bao gồm các nhóm nhiệm vụ, giải pháp về hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển và đẩy mạnh liên kết vùng; chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng để phát triển nhanh và bền vững vùng, các tiểu vùng và các địa phương trong vùng; phát triển khoa học - công nghệ, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; quản lý, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh; xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh...
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng lưu ý phải khơi dậy và phát huy mạnh mẽ hơn nữa truyền thống văn hiến, cách mạng, tinh thần yêu nước; tính chủ động, sáng tạo; ý chí vươn lên, tự lực, tự cường của cán bộ, đảng viên và nhân dân các địa phương trong vùng; quyết vượt lên chính mình, khắc phục tư tưởng tự mãn, bằng lòng với những gì đã làm; trái lại phải có ý chí và quyết tâm cao hơn nữa, quyết vươn lên làm cho bản thân, gia đình và quê hương, đất nước giàu mạnh, tốt đẹp hơn, dẫn đầu cả nước.•
Vùng đất văn hiến, đầy tiềm năng nhưng phát triển chưa đều
Vùng Đồng bằng sông Hồng gồm 11 tỉnh, TP trực thuộc trung ương, được phân thành hai tiểu vùng là: Tiểu vùng bắc Đồng bằng sông Hồng gồm bảy tỉnh, TP: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên và Tiểu vùng nam Đồng bằng sông Hồng gồm bốn tỉnh: Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình.
Đây là vùng đất màu mỡ và giàu tiềm năng phát triển, có truyền thống lịch sử văn hiến, cách mạng, anh hùng, vẻ vang. Vùng có nền văn hóa lâu đời, phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc với nhiều di sản văn hóa vật thể cũng như phi vật thể quý giá. Đồng thời, đây cũng là trung tâm hàng đầu về y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ với đội ngũ trí thức giỏi và đông đảo lực lượng lao động có chất lượng cao; là cái nôi đào tạo và cung ứng nguồn nhân lực cho cả nước với nhiều trường đại học, trung tâm nghiên cứu có uy tín.
Tuy nhiên, vùng vẫn còn một số mặt hạn chế như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong thời kỳ mới. Công nghiệp, đô thị phát triển khá nhưng còn mang tính tự phát; ô nhiễm môi trường có xu hướng tăng nặng hơn.
Các vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung cho xuất khẩu chưa hình thành được. Giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích chưa cao; tỉ lệ lao động nông nghiệp thiếu việc làm còn lớn. Đời sống nhân dân ở nhiều vùng nông thôn còn khó khăn...