Theo Nghị quyết 66-NQ/TW ngày 30-4-2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, pháp luật không chỉ đơn thuần là công cụ điều chỉnh hành vi mà còn được xác định là cơ sở và là đòn bẩy trong việc tạo dựng, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội.
Nghị quyết này là một trong những đột phá chiến lược về thể chế và tư duy, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận hiệu quả các nguồn lực về vốn, đất đai và nhân lực chất lượng cao và các nguồn lực khác cho sự hấp thu nhằm tạo cơ sở và tiền đề cho sự phát triển.
5 giải pháp để khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận nguồn vốn
Nghị quyết 66-NQ/TW đề cập đến việc tạo cơ sở pháp lý để khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận hiệu quả các nguồn lực về vốn; yêu cầu xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi, minh bạch, chi phí tuân thủ thấp, cắt bỏ các thủ tục hành chính bất hợp lý và đảm bảo quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Nghị quyết 68/NQ/TW ngày 4-5-2025 cũng đưa ra yêu cầu đẩy mạnh và đa dạng hóa nguồn vốn cho kinh tế tư nhân.
Cấp bách nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống pháp luật
Nghị quyết 66 mang đến động lực và niềm tin thông qua 5 quan điểm chỉ đạo lớn, 2 mục tiêu cụ thể đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và 7 nhiệm vụ, giải pháp thực thi mang tính định hướng. Nếu được thực hiện đầy đủ, Việt Nam có thể đạt được một hệ thống pháp luật hiện đại, chất lượng cao, tiệm cận chuẩn mực quốc tế trong vòng 15-20 năm tới.
Lần đầu tiên, Nghị quyết 66 đưa ra khái niệm “đưa thể chế, pháp luật trở thành lợi thế cạnh tranh”. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống pháp luật Việt Nam được xem là cần thiết và cấp bách, giúp các nhà hoạch định chính sách đưa ra giải pháp tổng thể, toàn diện và gắn chặt việc xây dựng pháp luật với phát triển kinh tế.
Để làm được những điều này, cần hoàn thiện hơn nữa về cơ chế, chính sách tín dụng riêng cho khu vực này. Tôi đề xuất một số chính sách như sau:
Thứ nhất, ưu tiên nguồn tín dụng của Nhà nước trong lĩnh vực thương mại, dành một phần lớn nguồn tín dụng cho khối doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa mà có khả năng tăng trưởng tốt, doanh nghiệp khởi nghiệp, công nghiệp hỗ trợ và tín dụng trong gắn liền ở các chuỗi cung ứng, nhất là trong các chuỗi tuần hoàn.
Thứ hai, mở rộng thêm phương thức cho vay, khuyến khích cho vay dựa trên phương án kinh doanh, dữ liệu, dòng tiền, cho vay trong chuỗi giá trị thay vì chỉ tập trung vào tài sản bảo đảm là bất động sản.
Mở rộng tài sản bảo đảm bao gồm và có liên quan đến các động sản, tài sản vô hình và tài sản hình thành trong tương lai của nhóm động sản và kể cả hình thành trong tương lai của hàng hóa, dịch vụ đồng thời đẩy mạnh hình thức cấp tín dụng trong tín chấp và nới lỏng điều kiện bảo lãnh.
Thứ ba, phát triển tín dụng xanh, nhà nước có cơ chế hỗ trợ lãi suất rõ ràng và cụ thể hơn, khuyến khích các tổ chức tín dụng giảm lãi suất cho các dự án xanh và dự án tuần hoàn, áp dụng tiêu chuẩn ESG (môi trường, xã hội, quản trị).
Khắc phục tình trạng sử dụng đất lãng phí
Về đất đai, Nghị quyết 66 không đề cập trực tiếp do đã có Nghị quyết 18-NQ/TW năm 2022 về hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất. Chính phủ và các bộ, ngành đã sửa đổi Luật Đất đai 2013 (hiện đang lấy ý kiến cho dự thảo sửa đổi Luật Đất đai 2024) và các luật liên quan như Luật Đầu tư, Luật Quy hoạch, Luật Xây dựng... để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất.
Mục tiêu là đến năm 2030, Việt Nam có hệ thống pháp luật về đất đai hoàn thiện, đồng bộ, khắc phục tình trạng sử dụng đất hay tài sản là các bất động sản mà gây ra lãng phí, hoang hóa và các vướng mắc do lịch sử để lại.
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung khung pháp lý theo hướng mở rộng danh mục tài sản cho thuê, thay vì chỉ tập trung vào các tài sản hữu hình trong cho thuê hay thuê mua như hiện nay, cần để bổ sung thêm các tài sản phi truyền thống, như phần mềm, quyền khai thác, quyền trong các tài sản trí tuệ, dữ liệu...
Nghiên cứu cho phép các định chế đầu tư tài chính trong nước huy động vốn từ các nguồn như quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ hưu trí tự nguyện để phát triển thị trường vốn trung và dài hạn cho khu vực kinh tế tư nhân trong một số lĩnh vực và ngành nghề. Cho phép việc huy động lại trong phê chuẩn và cấp phép vay vốn vay nước ngoài trong ngắn hạn đối với các khoản vay mới.
Thứ năm, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, mở rộng đối tượng cho vay của các quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, bổ sung chức năng đầu tư vào các quỹ đầu tư địa phương và tư nhân, trong ấy có các dạng quỹ hay công ty quản lý quỹ mà không thuộc Ủy ban Chứng khoán cấp phép và quản lý.
Khuyến khích bảo lãnh các khoản vay của bên thứ ba, kể cả cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể nhận được bảo lãnh khoản vay trong nước từ tổ chức, cá nhân mà sở hữu vốn của các doanh nghiệp này ở nước ngoài, chấp nhận rủi ro các khách quan trong cho vay và bảo lãnh khoản vay và thành lập quỹ tái bảo lãnh, các mô hình bảo lãnh chéo hay đồng bảo lãnh.
Tôi tin rằng những giải pháp trên đây sẽ góp phần làm cho thị trường tài chính trong nước trở nên đa dạng và sôi động hơn.
Cần thiết mở rộng tài sản bảo đảm bao gồm và có liên quan đến các động sản, tài sản vô hình và tài sản hình thành trong tương lai của nhóm động sản và kể cả hình thành trong tương lai của hàng hóa, dịch vụ; đồng thời đẩy mạnh hình thức cấp tín dụng trong tín chấp và nới lỏng điều kiện bảo lãnh.
Tạo tiền đề cho sự kết hợp công và tư trong lĩnh vực pháp luật
Đối với nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực pháp luật, Nghị quyết 66 có những điểm đột phá:
Về thu hút nhân tài: Áp dụng chế độ thù lao và thuê khoán để thu hút các chuyên gia, nhà khoa học pháp lý, luật gia, luật sư giỏi vào khu vực công. Đồng thời, đưa ra yêu cầu xây dựng chế định luật sư công và định hướng viên chức nhà nước trở thành luật sư. Hỗ trợ 100% mức lương cho người làm công tác nghiên cứu chiến lược, xây dựng pháp luật tại một số cơ quan.
Về nâng cao chất lượng đào tạo: Yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo luật, kiến thức pháp lý và phát triển các cơ sở đào tạo luật trọng điểm. Xây dựng chương trình đào tạo chuyên sâu về xây dựng pháp luật mang tính tư nhân hóa và xây dựng chuẩn đào tạo cho các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp.
Về hợp tác quốc tế: Mở rộng hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp, xây dựng mạng lưới chuyên gia pháp lý nước ngoài để hỗ trợ nghiên cứu các vấn đề mới như khoa học, công nghệ, chuyển đổi số, tạo ra nhu cầu về loại hình nhân lực mới.
Về đầu tư nghiên cứu: Nâng cao chất lượng các cơ sở nghiên cứu pháp luật, trong đó xây dựng đề án nâng tầm tổ chức nghiên cứu chiến lược thuộc Bộ Tư pháp trở thành cơ sở nghiên cứu trọng điểm quốc gia, dẫn đầu ASEAN.
Nghị quyết 66 tạo tiền đề cho sự kết hợp và giao thoa giữa khu vực công và tư trong lĩnh vực pháp luật, điều vốn nặng về yếu tố quản lý nhà nước trước đây. Theo tôi, mục tiêu đưa môi trường đầu tư của Việt Nam vào nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN (Singapore, Thái Lan, Indonesia) trong thời gian khoản 5 năm tới đối với trước mắt trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh là hoàn toàn khả thi nếu khu vực tư nhân được coi trọng và ưu tiên trong phát triển.
Dự đoán mục tiêu và mức độ thành công
Nghị quyết 66, ngoại trừ những định hướng và tiêu chí chung, cũng đã đề ra những mục tiêu cụ thể; tôi đánh giá cao khả năng đạt được của những mục tiêu này:
Về nguồn kinh phí: Đảm bảo chi cho công tác xây dựng pháp luật không thấp hơn 0,5% tổng chi ngân sách hằng năm và tăng dần, nghĩa là nếu lấy con số của mức chi cho ngân sách năm 2024 theo con số 1.831.000 tỉ đồng thì con số chi công tác này sẽ là rất lớn, trung bình sẽ có nguồn chi hơn cả 100.000 tỉ đồng chi cho mỗi năm cho hoạt động này. Thành lập Quỹ hỗ trợ xây dựng chính sách, pháp luật từ ngân sách nhà nước kết hợp xã hội hóa.
Về cơ cấu tổ chức: Đưa ra các định hướng rõ ràng trong bố trí cán bộ, ví dụ Giám đốc Sở Tư pháp tham gia cấp ủy cấp tỉnh, luân chuyển cán bộ tư pháp vào các ngành quản lý Nhà nước khác để bổ sung kinh nghiệm.
Về hỗ trợ pháp lý: Ưu tiên nguồn lực hỗ trợ pháp lý cho khu vực kinh tế tư nhân.
Về cải cách: Xóa bỏ tư duy xây dựng pháp luật còn nặng về quản lý, nâng cao chất lượng pháp luật để theo kịp thực tiễn, loại bỏ chồng chéo, mâu thuẫn, bãi bỏ thủ tục hành chính rườm rà và xây dựng cơ chế phản ứng chính sách kịp thời.
Nếu được xây dựng và duy trì hiệu quả về cơ chế phản ứng đối với các chính sách của Nhà nước thông qua các tổ chức, định chế trung gian hay những cơ quan chuyên trách của Nhà nước về việc này, nhất là đối với các chính sách mới ban hành, sẽ góp phần mang lại sự phản ánh đa chiều hơn trong công tác xây dựng và đưa vào vận hành chính sách, pháp luật vào thực tiễn đời sống.
Với những nỗ lực này, các mục tiêu của Nghị quyết 66 có thể đạt được:
Năm 2025 (độ trễ đến 2027): Cơ bản hoàn thành việc tháo gỡ "điểm nghẽn" do các quy định pháp luật.
Năm 2027: Hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản pháp luật để đảm bảo cơ sở pháp lý đồng bộ cho bộ máy nhà nước theo mô hình chính quyền ba cấp.
Năm 2028 (độ trễ đến 2029): Hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh, góp phần đưa môi trường đầu tư của Việt Nam vào nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN.