Đường một chiều

Thả một khách xuống xe, chờ đèn xanh bật lên, tài xế taxi George cua xe quanh góc đông nam quảng trường Trafalgar rồi hòa vào dòng xe cộ. Xe vòng hơn hai phần ba chiều dài của quảng trường trước khi rẽ theo hướng Pall Mall. Nhưng khi taxi đến ngã tư tiếp theo, có một khách bộ hành băng ngang đường. Người này có vẻ như không để ý gì đến những chiếc xe hơi đang nhộn nhịp lưu thông mà tiến tới trước đầu chiếc taxi của George. George bấm còi liên tục nhưng gã kia, thay vì đứng lại thì hốt hoảng nhảy tới trước.

George chửi thề, thắng gấp và quặt tay lái… Muộn rồi. Một bên hông taxi đụng phải vị khách bộ hành. Mũ ông ta văng sang một bên, chiếc áo mưa khoác trên tay văng sang bên kia và ông ta khuỵu xuống. Taxi lết bánh rồi dừng cách nạn nhân nửa mét. George la lên, vừa giận vừa sợ, phía sau hàng loạt phương tiện thắng rít lên. Nhưng George thở ra nhẹ nhõm ngay, nạn nhân đã đứng dậy, lượm mũ, áo mưa và bước khập khiễng đến bên taxi.

George thò đầu ra, la lớn trước khi nạn nhân có tên là Harold Bent kịp lên tiếng:

- Đi kiểu gì vậy! Không biết quảng trường lưu thông một chiều hả? Đồ…

Không vừa, Harold Bent làm như không nghe gì, hét tướng lên:

- Xém nữa anh đâm chết tôi! Tôi giữ đúng lề trái mà! Ai chẳng thấy!

Đám đông bu quanh nhộn nhạo: “Tôi, tôi chẳng thấy gì ráo!”; “Tôi chỉ thấy ông sau khi ông té thôi”… Đoạn, Bent mở cửa sau taxi, nói với ông khách còn ngồi ở băng sau:

- Ông nói đi, ông ngồi ở đây hẳn thấy rõ và…

Bent đột ngột ngưng nói, quay về phía George:

- Ông khách của anh sao vậy, bệnh hả?

Đám đông ùa tới, chen lấn nhau. Trong taxi, người khách mặc bộ vét màu xanh nhạt ngã chúi tới phía trước và nằm bất động trên sàn taxi. Đám đông lại nhộn nhạo: “Tự nhiên ông ta té làm như bị đánh!”; “Hay ông ta ngộ độc?”; “Ông ta bất tỉnh rồi, mau cởi nút áo cổ”…

Nhân viên cảnh sát nhanh chóng có mặt, nhẹ nâng người khách ngồi lên nệm, hỏi xung quanh:

- Có ai là bác sĩ, y tá trong số các vị ở đây không?

Lát sau, một người đàn ông đứng tuổi vạch đám đông bước tới, quỳ xuống sàn taxi, cầm cổ tay vị khách rồi nói nhỏ với nhân viên cảnh sát: “Người này đã chết”!

- Chúa ơi! Hẳn tai nạn khiến ông ta bị sốc. Hay ông ta đụng đầu…

- Không! Vị bác sĩ vẫn nói nhỏ, giọng nghiêm túc: “Ông ta đã bị đâm chết. Cán dao còn thò ra phía dưới cánh tay phải”.

* * *

Một tuần sau. Trong căn phòng khách nhỏ ấm cúng tại ngôi biệt thự ở vùng ngoại ô, thám tử trẻ Jack Painton ngồi hút ống điếu, uống bia, nói chuyện với cha mình - Thanh tra Painton đã nghỉ hưu:

- Bọn con chưa tiến thêm được bước nào so với ngày đầu tiên, vụ James Wellson bị đâm chết giữa ban ngày ban mặt, trong khu vực đông đúc nhộn nhịp nhất London, chỉ cách Scotland Yard chưa tới nửa cây số!

Thanh tra Painton mỉm cười:

- Vậy mà nhiều người, cả cha nữa, cứ tưởng sẽ có một thám tử trẻ đầy hứa hẹn nối dõi tông đường chứ! Kể cha nghe lại nào. Nhớ là cha đã theo dõi kỹ báo chí.

Thám tử trẻ cởi mở hơn:

- Được. Con nghĩ cha đã biết lời khai của tài xế - trừ 40% những lời chửi thề và nguyền rủa. Xe của anh ta được gọi vào khoảng giữa trưa, trước một quán rượu gần rạp xiếc Oxford. Người gọi chính là nạn nhân vụ án và một người đàn ông khác mà anh không mấy chú ý. Người này quay lưng lại, chui lẹ vô taxi. Anh chỉ kịp để ý khách nhỏ con, mang một áo mưa nhẹ, không đội mũ. Nạn nhân Wellson nói một địa chỉ ở Pall Mall nhưng bảo với tài xế bạn ông ta muốn xuống tại góc đông nam quảng trường Trafalgar. Người này định xuống xe ở đường Regent, gần Haymarket nhưng lúc xe ngang Nhà triển lãm quốc gia, tên giết người này gõ cửa kính đòi xuống. Tài xế nói đây là góc đông bắc Trafalgar nhưng hắn đáp hắn muốn xuống ngay chỗ này.

- Vậy đây là lần đầu tài xế nghe được giọng nói của tên sát nhân?

- Đúng, thưa cha. Giọng khàn khàn, giống như người nói bị đau cuống họng. Đây cũng là lần đầu George thấy mặt hắn. Anh ta nhớ hắn có hàng ria mép đen và đeo găng tay màu nâu sậm.

- Như thế không thể có dấu tay trên cánh cửa taxi hoặc trên cán dao gây án?

- Không một dấu vết. Tên sát nhân xuống xe, nói “Tạm biệt” với nạn nhân ngồi trong xe…

- Nạn nhân không trả lời?

- Tất nhiên, bởi thực tế ông ta đã chết nhưng thi thể đã được dựa vào một góc để không gây chú ý.

- Con nghĩ sao về việc tên sát nhân chọn điểm xuống xe?

- Con nghĩ do vừa gây án thành công - Người cha lắc đầu, trong khi người con tiếp tục - Và hắn có lý bởi thi thể của Wellson được phát hiện nhờ một tai nạn giao thông bất ngờ. Tai nạn này không giúp chúng ta nhiều. Tên sát nhân nhỏ con, có ria mép nay hẳn đã cạo mất và giọng nói khàn khàn, có thể nhằm ngụy trang, nay đang ung dung dạo phố tại London, còn chúng ta không có manh mối nào.

- Còn vũ khí?

- Cũng vậy. Một con dao rọc giấy bằng thép mỏng dính được mài bén ngót.

Viên thanh tra lặng lẽ nhả khói thuốc:

- Có dấu vết gì về phía nạn nhân không?

- Một người phục vụ ở tiệm rượu góc đường Pall Mall và Saint-James nhớ mang máng Wellson ngồi chung bàn với một ông khách không mấy lớn con. Ông này không mang áo mưa, không ria mép. Và Wellson bước ra ngoài một mình.

- Nhân thân của Wellson?

- Độc thân. Sống ở Hampstead. Ít khi ở nhà một mình. Làm thuê cho một công ty cơ khí. Có nhiều quan hệ ở quán cà phê nhưng không có kẻ thù cụ thể nào, tính đến nay. Nếu có, là những kẻ thù trong quá khứ. Trong suốt Thế chiến thứ hai, ông ta đào ngũ, lang thang hết thành phố này đến thị trấn khác. Tại những nơi ở, ông ta đều có quan hệ bất chính với các phụ nữ đã có chồng, nhất là chồng đang ở chiến trường. Gần như không có cách nào dò được hết những phụ nữ này, họ ở rải rác khắp nơi, trong suốt năm năm lang bạt của Wellson. Con nghĩ thủ phạm có thể là một trong những người chồng đã bị Wellson cắm sừng nhưng không biết nên bắt đầu từ đâu. Theo cha, nên làm gì bây giờ?

Painton cha chậm rãi nhấp một ngụm bia, rồi thong thả:

- Liệu Wellson có thể biết kẻ toan giết mình hay không?

- Không đâu. Nếu biết, ông ta đã không ngồi chung taxi. Điều này chứng tỏ thủ phạm giết Wellson hoàn toàn không phải ngẫu nhiên. Như vậy kẻ lạ mặt đã cố ý làm quen Wellson nhưng vẫn không tìm ra đầu mối nào về quan hệ trước đây giữa họ, bởi chưa ai nhìn thấy họ cùng đi với nhau, mặc dù chúng ta biết rõ những nơi nạn nhân thường lui tới.

- À, đó là vấn đề. Để cha suy nghĩ một lát.

Vị thanh tra già ngả người trên ghế bành, nhắm mắt. Mười phút sau, ông nhổm dậy:

- Có hai giả thiết sai.

- Vậy sao? Con đâu phải tay mơ mới chập chững…

- Chừng nào con có thời gian ở trong nghề lâu như cha… Thoạt đầu con đoán đúng kẻ sát nhân đã ngụy trang giọng khi nói với tài xế. Nhưng con lại giả thiết rằng khuôn mặt của hắn là thật. Cha muốn nói đến hàng ria mép. Tại sao hàng ria mép ấy không là giả, như giọng nói? Đa số hung thủ phạm tội xong thì hóa trang để thoát thân nhưng cũng có kẻ chỉ hóa trang để phạm tội. Có thể tên sát nhân nằm trong trường hợp này, do chỉ có duy nhất một nhân chứng nhìn thấy hắn nên hắn làm vậy không chỉ để biến mất sau khi gây án mà còn chưa bao giờ hiện hữu trước đó.

Người con gật gật đầu, cảm thấy bị thuyết phục:

- Phải, điều này giải thích việc chúng ta không tìm ra dấu vết nào về quan hệ giữa Wellson và người có hàng ria mép… Tuy nhiên, tên sát nhân không ngu gì mang bộ ria leo lên taxi với một người biết rõ hắn không hề có râu ria chi cả.

- Hắn mang ria sau khi ra tay, ngay trong taxi, giọng khàn khàn cũng vậy. Hãy nhớ lại, hắn nhanh chóng lên taxi và tài xế chưa khi nào nghe, nhìn thấy hắn cho tới sau đó.

- Con hiểu rồi. Cha muốn nói chúng ta chỉ việc tìm một người quen biết Wellson, không ngụy tạo giọng nói và không mang ria mép giả. Như vậy có ngây thơ không?

- Không. Ít nhất chúng ta biết kẻ này nhỏ con - cha không nghĩ hắn cố ý rùn chân thấp xuống để biến thành người lùn - và người từng giao tiếp với Wellson tại tiệm rượu cũng nhỏ con, phải không nào?

- Nhưng người này không có áo mưa và họ không đứng lên một lượt.

- Coi nào, chúng ta phải đối phó với một tên láu cá. Tiệm rượu đông người, có gì bảo đảm áo mưa của hắn không đặt trên ghế hoặc người phục vụ không nhìn thấy? Hắn chỉ việc nhanh nhẹn quơ tay cầm áo mưa để bắt kịp Wellson trước khi nạn nhân chặn taxi. Có hàng trăm cơ hội để hắn làm chuyện này.

Jack Painton nghĩ một lát, mặt sáng lên:

- Con nghĩ cha đã nói đúng. Đầu óc cha suy tính tuyệt vời. Sáng mai con sẽ vô tiệm rượu kiểm chứng lại... Nhưng giả thiết sai lầm thứ hai?

- Theo cha, không hẳn là tên sát nhân xuống xe tại góc đông nam quảng trường vì đã hoàn tất việc giết người.

- Vậy tại sao?

- Chuyện xảy ra rất nhanh và thật tự nhiên khi xuống taxi tại bất cứ điểm nào. Kẻ sát nhân đã xuống tại một góc đặc biệt của quảng trường không nằm trên đường đi. Tại sao? Thật ra có phải nhầm lẫn không? Giả sử ngay từ đầu, hắn đã biết chính xác nơi hắn muốn xuống… Chỉ cần 15 giây đi bộ từ Haymarket. Việc đã thực hiện, hắn chỉ cần nói taxi quẹo thẳng theo hướng phải, theo Pall Mall, không việc gì phải vô quảng trường Trafalgar. Nhưng taxi theo hướng đông nam buộc taxi chạy hết ba phần tư quảng trường, vì quảng trường buộc xe cộ phải theo một chiều.

Đột nhiên Painton cha ngồi thẳng dậy, tỏ ra phấn khích:

- Quả là táo bạo! Cha đánh cá với con là đã tìm ra. Tên sát nhân hết sức dạn dĩ - dám giết người giữa thanh thiên bạch nhật, trong xe taxi là những bằng chứng - nhưng nếu giả thiết của cha là đúng, hắn còn dạn dĩ hơn nữa. Hắn đoán chúng ta sẽ theo đuổi con người mà hắn ngụy trang. Cho nên hắn bỏ qua những gì chúng ta biết trước đó và không muốn chúng ta nghi ngờ gì hắn sau đó. Con ít nghi ngờ ai nhất, trong số những kẻ trực tiếp liên quan đến xác chết?

Jack Painton suy nghĩ một lát:

- Tất nhiên là tài xế taxi, bác sĩ, nhân viên cảnh sát, rồi người đã tình cờ phát hiện xác chết… Ồ không. Cha có lý. Chính là gã nhỏ con ấy… Hắn tên gì kìa? Đúng rồi, Harold Bent - người bị taxi tông!

- Đúng vậy! Ai lại nghi ngờ thủ phạm là người phát hiện xác chết trong hoàn cảnh tình cờ.

- Quỷ thật! Nhưng…

- Nghe hết này, chính người khách nhỏ con ở quán rượu ấy, chuồn ra ngoài, khoác áo mưa, không cho tài xế thấy mặt. Đâm chết người, đeo ria vào. Làm bộ đổi tiếng. Hắn buộc taxi dừng để hắn xuống, còn taxi phải chạy thêm ba phần tư quãng đường vòng quanh quảng trường. Lúc này hắn bỏ găng tay, cởi áo mưa, gỡ bộ ria. Đội thêm chiếc mũ giấu sẵn trong túi áo mưa. Hắn dư sức làm những điều này khi chỉ phải cuốc bộ khoảng 50 m trong khi taxi phải chạy hơn 300 m chưa kể gặp đèn đỏ phải dừng. Xong hắn chỉ việc ung dung chờ taxi đến để tạo một tai nạn nhỏ. Con hãy nhớ lại, tài xế kể rằng thay vì đứng lại khi nghe còi xe, Bent nhảy tới trước đụng vô hông xe. Tóm lại nhân chứng số một của con chính là thủ phạm giết người!

* * *

Sáng hôm sau, Jack Painton gọi điện thoại cho cha:

- Cha đã đúng. Vợ của Harold Bent sống trong một thành phố ở mạn bắc, nơi Wellson từng tới đó năm 1944. Hắn cua kéo dụ dỗ bà trong khi Bent bị tù ở Birmanie. Sau đó bà tự tử do hối hận, để lại lá thư thú tội với chồng. Ra tù, Bent bỏ ra hơn một năm để tìm Wellson và mới tìm thấy hắn đây. Chính vì vậy Bent mới tổ chức vụ ám sát đúng như cha đoán.

- Và con đã làm gì với Harold Bent?

- Ơ… Không. Con không phải làm gì cả. Cha biết không, thật là định mệnh. Bent gặp tai nạn xe hơi vào chiều qua, cũng tại ngay quảng trường Trafalgar. Ông ta vừa chết khi sáng.

LÊ VŨ (Theo One way street của Anthony Amstrong)

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm