Mặt trời vừa ló trên mặt biển, anh Lý Hữu Tiến (45 tuổi, tổ 22, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng) đã lỉnh kỉnh đồ nghề mang ra chiếc chòi dựng tạm bên đường Hoàng Sa để bắt đầu công việc đan thuyền thúng của mình. Anh là một trong hai người thợ cuối cùng làm nghề này của làng biển ở đây.
Cha truyền con nối
“Khoảng 6 giờ tui đã làm rồi. Trưa, vợ con mang cơm đến, ăn xong lại hì hục làm đến lúc trời tối thui. Đang vào mùa làm nghề nên chỉ khi có ma chay, cưới hỏi mới được nghỉ” - anh Tiến nói về lịch làm việc của mình.
Quê anh Tiến ở Hội An. Gia đình anh, từ đời ông cố đã nổi tiếng với nghề đan thuyền thúng, rồi cứ thế cha truyền con nối phục vụ ngư dân. Sau này anh chuyển ra Đà Nẵng nhưng xứ biển Đà Nẵng giờ cũng chỉ còn hai người làm cái nghề nhọc nhằn này. “Hồi 10 tuổi tui đã theo cha phụ việc. Có lúc theo chân cha đến ăn, ở trong nhà người ta làm để lấy tiền công. Cha tui cả đời theo nghề rồi chết trong nghèo khó…” - anh Tiến tâm sự rồi đạp chân siết mạnh sợi cước quấn chặt lấy vành chiếc thuyền thúng đang làm dang dở.

Sau 10 ngày vất vả, chiếc thuyền thúng của anh Tiến sắp được hoàn thành để giao cho khách hàng.
Với đôi tay cuồn cuộn, nước da đen lánh của trai miền biển, trông anh Tiến chẳng khác nào một lực sĩ. Vào nghề sớm nên cơ thể anh từ tấm bé đã to lớn hơn bạn cùng trang lứa. Anh Tiến nói mình học hành có hạn lại lao động nhiều nên trời cho sức khỏe. Còn nghề này thì phải học lâu mới giỏi, làm nhiều mới quen. Học ra nghề phải mất 5-7 năm nhưng cũng chỉ mới xem là tàm tạm. “Dấn thân vào nghề ni là tay chân phải te tua xơ mướp. Dằm, gai đâm nát bàn tay. Có khi còn bị những thanh tre sắc ngọt khoét sâu vào da thịt. Bởi vậy làm nghề ni bàn tay ai cũng lắm sẹo và chai sạn” - anh Tiến bộc bạch.
Theo anh Tiến, nghề làm thuyền thúng khó nhất là công đoạn uốn và nức vành. Một thuyền thúng anh làm chở được khoảng 10 người, vì vậy khi uốn tre và nức vành phải tính toán rất tỉ mỉ, nếu làm to quá hay nhỏ quá đều phải vứt bỏ. Riêng việc uốn thủ công một vành thuyền thúng cũng “vẹo hết cột sống”. Chưa kể các công đoạn cực nhọc khác như chẻ, vót, đan, bện, dui, ép tre… và cả siết cước bện vành. Do 10 tuổi đã theo cha học việc nên cái chòi làm thuyền thúng của anh không cần quảng cáo cũng có ngư dân Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Hà Tĩnh… truyền tai nhau tìm đến.
Kể về sự tỉ mỉ của nghề, anh Tiến nói: “Thợ cơ khí, thợ may, thợ xây, thợ mộc đều dùng thước để đo và có máy móc hỗ trợ. Còn thợ đan thuyền thúng thì phải tự tay mình làm tất. Đo, vẽ cũng chỉ bằng mắt thường”. Rồi anh than thở: “Đến khi thế hệ của bọn tui già cả thì nghề ni cũng sẽ chết theo. Bao tinh hoa của nghề mà cha ông miền biển truyền lại sẽ bị lãng quên vì bây giờ lớp trẻ không ham”.
Nắng lên đến đỉnh đầu, hơi nóng từ tấm tôn lợp chòi phả xuống nóng như rang. Vợ anh Tiến lững thững đến đưa cơm cho chồng vẫn không quên mang thêm ấm trà đá. “Đời anh làm hàng trăm chiếc thúng để ngư dân ra biển mà hằng ngày vẫn cơm đùm nước lọ ri đây. Làm nghề này mong đủ ăn, mua đủ chữ cho con là may phúc lắm rồi chứ không mơ giàu sang được đâu” - anh Tiến nói rồi dốc ngược ấm trà tu liên hồi.

Anh Minh bên những chiếc thuyền thúng chuẩn bị xuất sang Úc. Ảnh trong bài: LÊ PHI
Thuyền thúng xuất ngoại
Người thợ đan thuyền tài ba còn lại của làng biển Đà Nẵng là anh Phan Minh (40 tuổi, cùng trú tổ 22). Nhà anh Minh cả ba thế hệ đều đan thuyền thúng nhưng anh cũng là thế hệ cuối cùng theo nghề.
Anh Minh cho biết để hoàn thành một chiếc thuyền thúng anh phải làm cật lực trong 10 ngày. Một chiếc như vậy bán được 3-3,5 triệu đồng, trừ tất cả khoản chi phí tính ra tiền công của anh mỗi ngày được khoảng 200.000 đồng. Tuy nhiên, nghề đan thuyền thúng không phải lúc nào cũng có việc để làm. Nghề này chỉ thịnh vào mùa hè nắng to. Đó là lúc vào mùa ngư dân làm ăn, cũng là lúc tre nhiều và phơi được nắng. Vào mùa mưa, thợ đan thuyền thúng lại thất nghiệp, ngồi ngó ra biển buồn thiu. Mỗi chiếc làm ra phải 5-7 năm mới hỏng. Giờ người ta còn tít keo, bọc sợi nữa nên tuổi thọ của thuyền thúng càng lâu hơn. Nghề khó, ít người làm, đã vậy hiện nay thuyền thúng composite sản xuất nhiều nên khách đặt mua thuyền thúng thủ công ngày càng thưa dần.
Theo anh Minh, sau nhiều năm tay nghề cứng một thợ đan thuyền thúng mới tránh được những lần chảy máu vì tre nứa đâm. Còn lúc học nghề thì bị tre đâm như cơm bữa, vết sẹo này chưa lành vết khác lại chồng lên. Đưa bàn tay sần sùi chai sạn lên, anh Minh nói đó là thành quả của 20 năm anh theo nghề. Dù cực khổ là vậy nhưng với anh Minh, anh Tiến nếu không đan thuyền thúng thì cũng chẳng biết làm nghề gì vì tất cả đều đã quá tuổi để tìm nghề mới.
Tuy bị mai một nhưng nghề đan thuyền thúng vẫn còn những chuyện vui. Anh Minh bảo: “Tay nghề thì bọn tui phải học hỏi cha ông đi trước nhưng có một điều chúng tôi làm được mà ông cha không làm được. Đó là chúng tôi đã cho thuyền thúng của mình vượt đại dương xuất ngoại”. Chỉ tay về 12 chiếc thuyền thúng được sơn ba màu khác nhau nằm phơi nắng trên nền bê tông, anh cười tít mắt khoe: “12 chiếc thuyền thúng đó sẽ được chở ra cảng Hải Phòng để xuất đi Úc. Tháng trước một người Úc đến chỗ tui đặt mua. Họ sẽ đưa về Úc để phục vụ du lịch vì khi đến biển ở Việt Nam thấy ngư dân chèo thuyền thúng, họ mê”.
Hôm đó, lúc anh đang làm thuyền thúng thì hai du khách nước ngoài cùng người phiên dịch băng qua đường Hoàng Sa đi vào. “Họ nói xì lồ xì lào một lúc với nhau, sau đó cậu phiên dịch người Việt chạy đến ghé tai tui bảo muốn mua thứ tui đang làm. Tui bảo với cậu ta, ông bà Tây đó răng chèo thuyền thúng được mà mua. Nhưng cậu ta bảo họ mua không phải để chèo ra biển bắt cá mà để làm du lịch. Tui ra giá tiền công mỗi cái 2 triệu đồng. Ông Tây gật đầu rồi đặt tui làm 12 chiếc” - anh Minh kể.
Cũng theo anh Minh, thuyền thúng của anh đã rất nhiều lần xuất ngoại sang Úc, Pháp, Mỹ, Anh và Nhật Bản. Dù có bán cho người nước ngoài nhưng tiền công thì anh cũng chỉ lấy ngang với giá bán cho ngư dân trong nước. Có điều cái thuyền thúng xuất ngoại hơi nhỏ so với thuyền trong nước một chút. “Hai năm trước cũng từng có một ông người Nhật đặt tui làm 20 cái. Họ hẹn đúng hai tháng sau đem ô tô đến chở. Mình làm tốt nên họ còn cho thêm tiền công. Sau này thỉnh thoảng lại có mấy người Anh, Mỹ, Pháp… đến đặt một vài cái. Thấy thuyền thúng của mình được xuất ngoại tui cũng vui vì oách lắm” - anh Minh cho hay.
| Nghề đan thuyền thúng có nhiều ở các tỉnh ven biển nhưng cũng như các nghề thủ công khác, nghề này đang dần mai một. Ngoài thuyền thúng truyền thống, hiện nay ngư dân còn dùng thuyền thúng gắn máy, thuyền thúng bằng composite. Năm 2006, Viện Thiết kế chế tạo tàu thuyền (ĐH Nha Trang) chế tạo thành công thuyền thúng không chìm bằng vật liệu composite. So với thuyền thúng truyền thống, thuyền thúng composite có ưu điểm là nhẹ hơn, độ bền khoảng 20 năm và hằng năm không phải bảo dưỡng. Ưu điểm của thuyền thúng chai là rất khó bị lật, dễ xoay trở trong không gian hẹp bởi hình dáng tròn xoay. Thúng chai còn có ưu điểm là không cần dụng cụ gì vẫn có thể lướt trên nước nhờ cách lắc thúng. Về nguồn gốc của thuyền thúng, có người cho rằng đây là sáng tạo độc đáo của người Việt. Theo đó, thúng chai ra đời sau khi các chúa Nguyễn cho phát triển dải đất miền Trung. Ngư dân phải ra biển từ các bãi ngang sóng lớn nên phát kiến ra thuyền hình tròn để tăng khả năng lướt sóng, chinh phục biển khơi. |
LÊ PHI