Tự xây mộ cho mình

(PL-NS)- Quan niệm “sống cái nhà, thác cái mồ” khiến người dân quê xây đắp mộ phần theo kiểu cách hoành tráng gấp mấy lần nhà ở.

Theo quốc lộ 1A cũ hướng ra Bắc, vừa ra khỏi nội đô TP Huế nhìn về bên phải, một cánh đồng rộng trải dài ra tận phá Tam Giang với những ngôi làng nằm rải rác được bao bọc tre xanh kiên cố. Mùa mưa bão, cánh đồng ấy mênh mông một biển nước. Người dân đi lại chủ yếu bằng ghe, xuồng. Đứng trên quốc lộ nhìn xuống, trên vùng nước mênh mông là hai thứ nổi rõ trên mặt nước. Đó là những ngôi nhà cao ráo ẩn mình sau lũy tre xanh và những ngôi mộ hoành tráng, cầu kì nằm bên nhau trong nghĩa địa.

Có được mộ phần hoành tráng là ước nguyện của không ít người còn sống. Ảnh: TRẦN KIÊM HẠ

Xây mộ từ tuổi 40

Hầu hết mộ phần ở đây đều được xây kiên cố, cách điệu như lăng tẩm quan quyền. Một vài ngôi mộ còn tươi nguyên màu vữa. Hỏi ra mới biết đó là sinh phần của những người còn sống, rất trẻ, tuổi mới ngoài 40!

Trong tâm thức người dân quê tôi, ngôi nhà và mộ phần là một quần thể không thiếu nhau được. Ấy là minh chứng dễ hiểu vì sao người dân bản xứ quê tôi luôn đau đáu bên mình câu thành ngữ “sống cái nhà, thác cái mồ”.
Trong từng ngôi làng, nghĩa địa được hình thành từ những thửa ruộng chua phèn, xa làng, khó canh tác. Nếu chẳng may có người mất đi vào mùa lụt, thân nhân sẽ rất khổ tâm và gian nan khi phải an táng người thân mình dưới đáy nước.

Để tránh tình cảnh khó xử ấy, con cái thường chuẩn bị trước cho cha mẹ già của mình một mộ phần, quê tôi gọi là sinh phần. Mỗi sinh phần rộng khoảng 20 m2 và được đắp cao hơn đỉnh lũ. Tùy theo kinh tế từng gia đình mà sinh phần được xây đơn giản hay cầu kì, hoàn tất lăng mộ hay chỉ là một huyệt mồ bằng gạch rồi đổ đầy cát vào. Bằng cách này thì khi an táng, người ta chỉ cần đưa hết lớp cát ở đó lên, đặt quan tài xuống lấp lại là xong, vừa nhẹ lòng người thân lại vừa đỡ phần vất vả cho dân làng.

Đường vào làng Phước Tích (xã Phong Hòa, huyện Phong Điền) đã được bê tông hóa. Ảnh: TRẦN KIÊM HẠ

Khác với việc đắp nền nhà, đắp sinh phần phải thực hiện vào mùa khô lúc nông nhàn, làm chớp nhoáng trong một, hai ngày là xong. Với phương châm “nghĩa tử là nghĩa tận”, xưa nay làng tôi có quy ước mỗi người dân khi về già đều được dân làng hợp lực đắp cho một sinh phần. Chuyện ăn uống gia chủ có chi làm nấy. Nhưng truyền thống tốt đẹp ấy ngày càng bị biến tướng. Giờ đây, cỗ bàn to hay nhỏ đã trở thành thước đo hiếu sự, khiến người nghèo đắp sinh phần cho người thân mình không còn chuyện nhỏ nữa.

Trở về thăm quê sau nhiều năm xa cách, tôi hài lòng trước cuộc sống hiện đại của quê hương mình. Cuộc sống người dân khấm khá hơn xưa nhờ thay đổi phương thức sản xuất mới. Bỏ qua công đoạn làm đất gieo mạ, cấy hái đầy tốn kém, phương pháp gieo trực tiếp hạt giống ngắn ngày xuống ruộng đã giúp người nông dân giảm nhân công, tăng năng suất, quan trọng hơn là thu hoạch trước lũ.

Tôi đi dưới hàng tre rợp bóng, cái cảm giác rờn rợn thận trọng đặt từng bước chân vì sợ dẫm gai tre ngày xưa không còn nữa. Những con đường sâu trong xóm nhỏ ăn thông ra đồng ngày trước là lối trâu đi, thường xuyên lầy lội, muỗi mòng giờ cũng được bê tông hóa. Trong những khu vườn xanh mướt màu lá đã có những ngôi nhà tầng kiên cố mọc lên đủ sức chống bão, lụt thế kỷ.

Nhưng tôi thật sự ngỡ ngàng! Hầu hết mộ phần ở đây đều được xây kiên cố, cách điệu như lăng tẩm quan quyền. Một vài ngôi mộ còn tươi nguyên màu vữa. Hỏi ra mới biết đó là sinh phần của những người còn sống, rất trẻ, tuổi mới ngoài 40! Họ là những người biết xoay xở sau ngày đổi mới, hoặc có người thân ở nước ngoài gửi tiền về. Xây nhà xong, họ liền xây cho mình... một mộ phần. Với họ, đó là hai việc lớn của một đời người, ai làm xong thì lòng hân hoan như người nông dân vừa cày xong thửa ruộng.

Bớt “phần sống” cho lo “phần chết”

Trải qua bao đời cơ cực, người dân quê tôi nghiệm ra rằng không gì sung sướng bằng được cùng gia đình quây quần bên bếp lửa hồng trong căn nhà vững chắc khi ngoài trời mưa to gió lớn. Và không gì hạnh phúc bằng ngoài đồng ông bà, tổ tiên đã được mồ yên mả đẹp.

Trong điều kiện sống khắc nghiệt về thời tiết thì quả không đơn giản chút nào để người dân quê tôi đạt được ước nguyện này. Nắng thì nẻ đất nẻ đai, mưa thì dầm dề hàng tháng trời. Có khi mùa màng chưa kịp thu hoạch, nước lũ đã về ngự trị trắng đồng. Chỉ cần một cơn lũ quét, thành quả bao năm tích cóp có khi đi đời, chẳng những trắng tay mà có khi còn mất cả sinh mạng. Khó khăn như vậy nhưng nhiều gia đình cũng đạt được ước nguyện trên nhờ sự quyết tâm, siêng năng, cần cù của người chồng, kết hợp với người vợ biết lo toan, vun vén cho gia đình.

Đồi Vọng Cảnh (Huế) nhìn xuống hạ lưu. Ảnh: TRẦN KIÊM HẠ

“Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm” là câu tục ngữ được truyền dạy qua nhiều thế hệ. Trong gia đình, người lớn luôn nhắc nhở con cháu phải nằm lòng câu tục ngữ này như một câu khẩu hiệu. Vừa xong một vụ mùa, bà con nông dân lại chong đèn khảo lúa tới sáng. Trừ đi những khoản chi lớn cho tái sản xuất, giỗ chạp, họ dành dụm một phần góp sở hụi làm nhà, xây mộ... Với số lương thực còn lại, họ điều phối gia đình ăn sao cho tới ngày giáp hạt. Định lượng mỗi ngày có chừng nào thì “xào” chừng đó, thiếu thì độn thêm rau củ quả chứ tuyệt đối không để lỡ kế hoạch xây mộ phần.

Gia đình nào có được người phụ nữ biết vun vén thì chuyện xây nhà đắp mộ chỉ còn là thời gian chứ không xa vời chút nào. Người vợ, người mẹ cần có tài nội trợ khéo léo, biết khẩu vị của chồng con, biết yêu thương và hy sinh cho gia đình. Mỗi bữa ăn, bao giờ họ cũng lấy cớ ăn sau, nhìn chồng con chan, húp sì sụp những thức ăn tự tay mình tăng gia, chế biến là họ đã “no” với niềm hạnh phúc đó rồi!

“Quê tôi nghèo lắm ai ơi!
Mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn…”

Hai câu thơ miêu tả tình cảnh đời sống người dân quê tôi vẫn còn nguyên tính “thời sự” chứ chưa thuộc về dĩ vãng. Vậy nhưng nếu có dịp ghé thăm “khúc ruột miền Trung”, xin du khách đừng ngạc nhiên khi chứng kiến mộ phần ở đây được xây kiểu cách, hoành tráng gấp nhiều lần so với nhà ở.

TRẦN KIÊM HẠ

(Nguyệt san Pháp Luật TP.HCM tháng 11-2010)

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm

Đọc nhiều
Tiện ích
Tin mới