Nhà máy Angkor Milk của Vinamilk tại Campuchia ra lò mẻ sản phẩm sữa đặc đầu tiên trong ngày khánh thành
Đầu tháng 7-2016, nhà máy sữa Driftwood tại Mỹ do Công ty CP Sữa Việt Nam (Vinamilk) sở hữu 100% vốn giới thiệu sữa đặc và creamer tại hội chợ Fancy Food Show. Kết thúc hội chợ, các sản phẩm này đưa vào bán tại các siêu thị ở bang Arizona và California.
Khởi nguồn từ những khó khăn
Trong tất cả các ngành hàng nói chung, để vào được thị trường Mỹ là điều không dễ dàng. Chúng phải đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm đối với ngành thực phẩm nói chung và ngành hàng sữa nói riêng; được FDA, USDA công nhận chất lượng, cấp giấy phép nhập khẩu. Bà Mai Kiều Liên, Tổng Giám đốc Vinamilk, nhìn nhận vị thế hiện nay là “quả ngọt” từ việc kiên trì xây dựng nhãn hiệu sữa đặc Ông Thọ trong 40 năm. Công ty đang sở hữu 13 nhà máy tại Việt Nam, ba nhà máy ở Mỹ, New Zealand và Campuchia. Trong đó, bốn nhà máy tại Việt Nam và một nhà máy ở Campuchia sản xuất sản phẩm sữa đặc với tổng công suất hơn 300 triệu lon/năm, đáp ứng nhu cầu nội địa và xuất khẩu.
Cuộc hành trình của sữa đặc bắt đầu khi Vinamilk tiếp quản ba nhà máy tại miền Nam gồm nhà máy Thống Nhất, nhà máy Trường Thọ và nhà máy Dielac. Lúc bấy giờ, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, thiết bị công nghệ cũ kỹ, doanh nghiệp thụ động trong sản xuất do không có nguồn ngoại tệ nhập khẩu nguyện liệu. Các nhà máy chỉ chạy chưa tới 1/20 công suất, sản xuất cầm chừng vài ngàn lon sữa mỗi tháng.
“Thời kỳ này, sữa đặc được xem như hàng xa xỉ phẩm do quá khan hiếm và đắt đỏ. Hộp sữa đặc phân phối theo tiêu chuẩn, khi đến tay người tiêu dùng nhiều lon bao bì đã ố vàng nhưng đó vẫn là niềm ao ước của biết bao người. Chỉ những người ốm hay trẻ nhỏ, người già mới được uống cốc sữa để bồi bổ sức khỏe”, bà Mai Kiều Liên nhớ lại.
Để giải quyết khó khăn, lãnh đạo Vinamilk chủ động liên doanh liên kết với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu có ngoại tệ mạnh. Song song đó, công ty cho ra mắt nhãn hiệu sữa đặc Ông Thọ. Đây là dòng sản phẩm cao cấp, bán tại các cửa hàng nhằm xuất khẩu tại chỗ lấy ngoại tệ nhập nguyên liệu. Kết quả, từ vài trăm triệu đồng ban đầu, công ty đã nâng vốn tự có lên 20 tỉ đồng vào năm 1987, gia tăng sản lượng, doanh thu vượt kế hoạch.
Tự hào sản phẩm của người Việt
Những năm 1990, do cấm vận kinh tế nên Vinamilk không nhập được phụ tùng thay thế phục vụ sản xuất, bị động nguồn nguyên liệu. “Chúng tôi mù thông tin về giá cả thị trường thế giới, trong khi nguyên liệu lại nhập khẩu hoàn toàn, không giao lưu trao đổi với bên ngoài, bị động nguồn vốn ngoại tệ mạnh. Làm sao có thể giảm giá mua, từ đó giảm giá thành sản phẩm là bài toán khó”, bà Liên kể. Để làm được điều đó, Vinamilk mua trực tiếp nguồn nguyên liệu bột sữa, dầu bơ… Mặt khác, công ty lên kế hoạch phát triển hệ thống trang trại bò sữa trong nước nhằm tự chủ nguồn nguyên liệu.
Sau khi cấm vận kinh tế được bãi bỏ, Vinamilk bước sang giai đoạn phát triển mới. Mô hình liên kết với người nông dân mở rộng vùng chăn nuôi, đồng thời tự mình hình thành các trang trại chăn nuôi bò sữa từ Bắc chí Nam giúp tổng đàn từ 3.000 con năm 1991 đã vượt lên trên 120.000 con năm 2016, cho sản lượng sữa 200.000 tấn/năm. Bà Liên thông tin thêm “Đây là bước ngoặt quan trọng. Nhờ vậy, Vinamilk chủ động nguồn nguyên liệu sữa cho sản xuất. Chiến lược kết hợp hiện đại hóa máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến hàng đầu thế giới cùng vùng nguyên liệu từ 1991-2003 đã giúp công ty chiếm đến 75% thị phần sữa đặc”.
Ông Thọ và Ngôi Sao Phương Nam là hai thương hiệu sữa đặc được người tiêu dùng rất ưa chuộng
Qua 40 năm, sữa đặc Vinamilk nói chung, sản phẩm sữa đặc Ông Thọ nói riêng trở nên gần gũi và thân quen với người tiêu dùng. Đó là hình ảnh ly cà phê sữa nóng mỗi sáng hay món bánh flan thơm ngon, món bánh mì chấm sữa, yaourt mát lành. Chúng sẽ mãi mãi đọng lại trong tiềm thức người Việt.