Sáng 25-5, góp ý vào báo cáo giám sát về Nghị quyết 43 phục hồi kinh tế, đại biểu Hà Sỹ Đồng (đoàn Quảng Trị), đánh giá nếu chỉ có COVID-19 thì gói chính sách của Nghị quyết 43 "không cần thiết".
Lý do theo ông Đồng, năm 2022 nền kinh tế thời điểm đó thừa vốn, lãi suất rất thấp, các gói hỗ trợ cũng không có tác dụng kích thích tăng trưởng. Tuy nhiên, ngoài COVID - 19 thì kinh tế giai đoạn 2022 và 2023 có những vấn đề khác (chiến tranh, kinh tế toàn cầu biến động, vỡ bong bóng tài sản), nên cuối cùng gói hỗ trợ này lại phần nào phát huy được hiệu quả.
Chậm triển khai Nghị quyết 43 “khiến nó mang lại hiệu quả"
Đại biểu đoàn Quảng Trị cho rằng chính việc chậm triển khai Nghị quyết 43 “khiến nó mang lại hiệu quả". Bởi nếu triển khai mạnh vào đầu 2022 khi mới ban hành thì Nghị quyết 43 sẽ bơm thêm vào bong bóng tài sản lúc đó đang phình to.
“Nhưng vì việc triển khai Nghị quyết 43 chậm, vào lúc bong bóng đã qua đỉnh và bắt đầu quá trình hạ cánh nên có tác dụng giúp Việt Nam hạ cánh mềm, thay vì hạ cánh cứng như nhiều nước khác” – ông nhìn nhận.
Bên cạnh đó, sự thất bại của gói lãi suất 2% (chỉ giải ngân được 3,05%), nhìn ở khía cạnh nào đó cũng chưa hẳn là thất bại. Nếu gói này hoạt động tốt thì chắc chắn việc đối phó với lạm phát trong năm 2022 của Việt Nam sẽ khó khăn hơn rất nhiều. Chẳng hạn như giai đoạn gói kích cầu 2009 đã gây lạm phát của năm 2011.
Vì những yếu tố đó, Việt Nam đã không lâm vào lạm phát cao như nhiều nước phát triển như Mỹ và EU. “Việt Nam vẫn có tốc độ tăng trưởng khá. Dù thấp hơn chỉ tiêu của Quốc hội nhưng vẫn được coi là ổn” – ông nói thêm.
Sau này Chính phủ có nhiều giải pháp điều hành khác mang lại hiệu quả cũng rất tốt. Như giảm thuế xăng dầu khi giá xăng dầu thế giới tăng; gia hạn nộp thuế cũng là chính sách cần thiết… Từ đó ông cho rằng bài học rút ra trong bối cảnh hiện nay là cần ưu tiên tính khả thi của các chính sách khi xây dựng.
Chẳng hạn, gói hỗ trợ lãi suất 2% không thực hiện được do không khả thi. Trong khi đó, các gói giảm VAT phát huy hiệu quả cao, do biện pháp này dựa trên các thủ tục thuế có sẵn. “Nếu được làm lại, có lẽ gói VAT nên giảm đồng loạt xuống 8% thì sẽ tốt hơn” – ông nhấn mạnh.
Cũng theo đại biểu Đồng, các nước khác sử dụng chính sách đầu tư công để phục hồi kinh tế rất hiệu quả nhưng chúng ta gặp nút thắt về pháp luật và siết kỷ cương bộ máy, do đó đầu tư công không phát huy được hết tác dụng.
Đáng chú ý ông nhìn nhận 2022 - 2023 là hai năm toát mồ hôi của chính sách tiền tệ. Tuy vậy khi nhìn lại thời điểm đó mà điều hành được như những gì đã diễn ra có thể được coi là thành công".
Đã có tình trạng tát nước theo mưa
Về lâu dài, ông Hà Sỹ Đồng cho rằng cần tiến tới sử dụng các công cụ lãi suất để điều hành tín dụng hơn là công cụ về hạn mức tăng trưởng tín dụng (room tín dụng). “Vấn đề này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước vẫn kiên trì quan điểm chưa thể bỏ công cụ room tín dụng” – ông nói và đề nghị Ngân hàng Nhà nước sớm có tổng kết đánh giá chính sách room tín dụng và tiến tới luật hóa đối với vấn đề này.
Cũng cần phải nói thêm rằng, có tình trạng tát nước theo mưa - tức là nhân việc Quốc hội và Chính phủ đang có gói hỗ trợ phục hồi kinh tế mà có ngành xin thêm. Ví dụ như ô tô xin gia hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt, giảm lệ phí trước bạ, khiến năm 2022 là năm ngành ô tô có doanh số kỷ lục.
Quá trình thực hiện có thể thấy, sự phối hợp giữa Chính phủ và Quốc hội là đặc biệt quan trọng. Ví dụ như việc giảm thuế xăng dầu, chính sách giảm thuế VAT 2% đáng lý ra có thể được điều chỉnh để giảm cho tất cả mặt hàng từ 10% xuống 8% thì lại quá cứng nhắc phụ thuộc vào Nghị quyết 43.
Cạnh đó, nhiều ý kiến đề nghị giãn nộp thuế thêm vài tháng sang năm sau, vì đây là thời điểm giáp hạt đối với doanh nghiệp. Song điều này lại thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Chính phủ ngại điều chỉnh dự toán ngân sách nên đã không trình.
Bài học nữa là tập trung vào tính khả thi và chọn thời điểm. Đại biểu Đồng cho rằng nếu trong tương lai lại có các chương trình, gói hỗ trợ kinh tế vĩ mô thì phải cân nhắc rất kỹ về yếu tố thời điểm đưa chính sách vào cuộc sống.
“Còn như Nghị quyết 43 cho thời hạn thực hiện hai năm nhưng thời gian đó rất nhiều thứ đã khác. Khủng hoảng kinh tế do COVID-19 rất khác với khủng hoảng khác” – ông nói.
Ông cho rằng nếu gặp tình huống cần chính sách hỗ trợ, thứ đầu tiên cần nghĩ đến là giảm thuế. Thậm chí có thể cân nhắc việc giảm thuế mức lớn và cần tập trung vào một ngành rất cụ thể.
Ví dụ, thời điểm mới bắt đầu hết giãn cách, khôi phục các đường bay thì thậm chí nên tính đến việc giảm VAT hàng không về 0% hoặc giảm các loại phí, lệ phí sân bay. “Điều này có thể giúp hàng không phục hồi nhanh hơn” – ông nhìn nhận.