Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước (Bộ Công thương) kiểm tra các cơ sở kinh doanh bên trong khu chợ Saigon Square. Ảnh: HỒNG THẮM

Dẹp hàng giả phải cần công nghệ, thể chế và cơ chế phối hợp

(PLO)- Trước ma trận hàng giả ngày càng tinh vi trên không gian mạng, cuộc chiến bảo vệ người tiêu dùng và các thương hiệu chân chính đòi hỏi những giải pháp toàn diện, đột phá.

Hôm nay, báo Pháp Luật TP.HCM tổ chức Tọa đàm “Ngăn chặn hàng giả, hàng nhái và thông tin giả gây hại cho doanh nghiệp (DN)”.

Sự kiện quy tụ đông đảo đại diện cơ quan quản lý, chuyên gia và lãnh đạo các DN để cùng mổ xẻ các lỗ hổng chính sách, tìm kiếm những giải pháp thực tiễn nhằm chặn đứng vấn nạn hàng giả, hàng nhái đang bào mòn sức khỏe người tiêu dùng (NTD) và sự sống còn của DN chân chính.

Hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng từ lâu đã là một vấn nạn nhức nhối, không chỉ bào mòn nền kinh tế, triệt tiêu động lực sáng tạo của DN chân chính mà còn là mối nguy trực tiếp đến sức khỏe, an toàn và niềm tin của hàng chục triệu NTD. Giờ đây, cuộc chiến ấy đang bước vào một giai đoạn cam go hơn bao giờ hết, khi “mặt trận” chính đã dịch chuyển lên không gian mạng với những thủ đoạn biến hóa khôn lường.

Báo Pháp Luật TP.HCM đã có cuộc trao đổi với luật sư Nguyễn Tri Thắng (ảnh), Phó Chủ tịch Quỹ chống hàng giả Việt Nam, về chủ đề trên.

1Hinh-Nguyen-Tri-Thanh_Quyhangiga.jpg

Thách thức lớn nhất hiện nay: Không gian mạng

. Phóng viên: Thưa ông, có thể thấy Chính phủ đã có những chỉ đạo rất quyết liệt về chống hàng giả, hàng nhái trong thời gian qua. Vậy trên thực tế, cuộc chiến chống hàng giả đã ghi nhận những chuyển biến cụ thể nào?

+ Ông Nguyễn Tri Thắng: Đúng là khi có sự chỉ đạo quyết liệt và sự vào cuộc đồng bộ, chúng ta đã thấy những hiệu ứng rất tích cực. Chuyển biến rõ nhất là ở cường độ và hiệu quả thực thi. Hàng loạt đường dây sản xuất, buôn bán hàng giả với quy mô hàng trăm tỉ đồng đã bị triệt phá, từ những mặt hàng tiêu dùng thông thường như mỹ phẩm, thời trang đến các mặt hàng ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn như dược phẩm, phụ tùng ô tô, thiết bị điện tử.

Sự chuyển biến thứ hai và cũng là một bước tiến mang tính nền tảng là cuộc cách mạng trong quản lý dữ liệu. Gần 80% biên bản xử lý vi phạm của lực lượng quản lý thị trường (QLTT) hiện đã được số hóa. Trước đây, việc tra cứu lịch sử vi phạm của một DN là công việc tốn nhiều thời gian, phụ thuộc vào hồ sơ giấy tờ lưu trữ tại các địa phương. Giờ đây, với vài cú nhấp chuột, một thanh tra viên có thể truy cập vào một hồ sơ điện tử hợp nhất, liên thông trực tiếp với cơ sở dữ liệu của hải quan và thuế. Điều này giúp việc nhận diện các đối tượng có rủi ro cao trở nên nhanh chóng và chính xác, bịt kín nhiều kẽ hở trong quản lý thủ công trước đây.

Tuy nhiên, thách thức lớn nhất hiện nay không nằm ở thị trường truyền thống, mà tập trung vào không gian mạng, đặc biệt là các nền tảng xuyên biên giới. Đây là “mặt trận” cam go bởi tính ẩn danh cao, tốc độ lan truyền nhanh và tính chất phức tạp của dòng tiền cũng như luồng hàng hóa xuyên quốc gia, vượt ngoài khả năng kiểm soát đơn lẻ của một cơ quan chức năng.

Chỉ trong vài giờ, một shop lậu có thể mở gian hàng ảo trên nhiều nền tảng. Dùng quảng cáo vi mô (micro-targeting) để tiếp cận khách hàng; vận chuyển qua kênh chuyển phát nhỏ lẻ, giá trị dưới ngưỡng kiểm tra hải quan. Việc định danh, truy vết và xử phạt cá nhân hoặc tổ chức ở ngoài lãnh thổ luôn đòi hỏi hợp tác quốc tế sâu rộng, điều mà chúng ta vẫn đang xây dựng.

P10-11-anhphu.jpg
Người dân tham quan, tìm hiểu thông tin về sản phẩm vi phạm tại phòng trưng bày của Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước. Ảnh: AH

Để dẹp nạn hàng giả cần sự kết hợp giữa công nghệ, củng cố niềm tin thể chế và cơ chế phối hợp liên ngành như một kiềng ba chân vững chắc để làm trong sạch môi trường kinh doanh.

. Ông vừa nhắc đến những thách thức trên không gian mạng. Vậy phải chăng chính những kẽ hở trong cơ chế quản lý hiện hành, cụ thể là việc tự công bố sản phẩm và một hệ thống hậu kiểm còn yếu, đang là khó khăn, tạo ra một “vùng xám” pháp lý cho hàng giả ngang nhiên tồn tại?

+ Đúng vậy. Hệ thống quản trị rủi ro hiện dựa chủ yếu trên việc tự công bố rồi “hậu kiểm thông minh”. Nhưng thực tế, năng lực hậu kiểm của chúng ta, từ ngân sách, nhân lực đến trang thiết bị thử nghiệm chưa bao giờ tương xứng với tốc độ phát triển của thị trường. Khi năng lực hậu kiểm không theo kịp, vòng đời của một sản phẩm giả có thể kéo dài hàng tháng trời, đủ để nó len lỏi vào mọi ngóc ngách thị trường trước khi bị phát hiện.

Có ba kẽ hở lớn. Một ở khâu đăng ký tiêu chuẩn chất lượng, một là DN chỉ cần điền thông tin, tự khai sản phẩm của mình đạt tiêu chuẩn X, Y, Z, sau đó quét thành file PDF và nộp lên hệ thống. Gần như không có khâu xác thực độc lập, bắt buộc tại thời điểm đăng ký. Việc tra cứu chéo, xác minh tính xác thực của các tài liệu này là cực kỳ khó khăn và tốn thời gian.

Hai là kẽ hở tinh vi hơn là câu chuyện về mã số, mã vạch. Nhiều đối tượng thành lập một công ty hợp pháp ở nước ngoài, đăng ký mua một khối lượng mã GS1 quốc tế, sau đó nhập hàng hóa kém chất lượng sản xuất ở một nơi khác về Việt Nam và ngang nhiên “mượn” mã vạch “xịn” GS1 chính hãng dán lên sản phẩm. Khi NTD quét mã, thông tin hiện ra vẫn là một công ty có thật nhưng sản phẩm bên trong thì hoàn toàn khác.

Ba là kẽ hở hậu kiểm, con số đáng báo động nhất chính là tần suất kiểm nghiệm thực tế chỉ đạt dưới 3% tổng số sản phẩm lưu hành trên thị trường. Điều này có nghĩa là cứ 100 sản phẩm bày bán trên kệ, có đến 97 sản phẩm có thể chưa bao giờ được đưa đi kiểm nghiệm chất lượng chính thức sau khi ra thị trường. Đó là một trò chơi may rủi mà phần thắng có khi lại nghiêng về phía những đối tượng gian lận. Do đó, tăng cường tiền kiểm có chọn lọc kết hợp truy xuất điện tử đầu cuối là hai đòn bẩy trọng yếu cần thiết.

Dẹp hàng giả phải cần công nghệ, thể chế và cơ chế phối hợp
Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước (Bộ Công thương) kiểm tra các cơ sở kinh doanh bên trong khu chợ Saigon Square. Ảnh: HỒNG THẮM

Lời giải từ bốn trụ cột công nghệ

. Hàng giả trên không gian mạng rõ ràng là một bài toán phức tạp. Một số ý kiến cho rằng cái gốc của vấn đề là do chúng ta thiếu chế tài đủ mạnh để xử lý các nền tảng xuyên biên giới. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào? + Việc thiếu chế tài mạnh chỉ là một nửa của vấn đề. Thách thức cốt lõi còn nằm ở khả năng thực thi, ngay cả khi chúng ta có một khung pháp lý hoàn hảo trong tay.

Chúng ta đối mặt với ba thách thức chính. Thứ nhất, vấn đề định danh pháp nhân. Các nền tảng lớn thường xây dựng một cơ cấu pháp lý rất tinh vi. Pháp nhân mà họ đăng ký tại Việt Nam phần lớn chỉ đóng vai trò là “đơn vị tiếp thị” hoặc “đại diện đối tác”, không chịu trách nhiệm trực tiếp về hàng hóa được giao dịch trên nền tảng.

Thứ hai, chứng cứ số cực kỳ dễ bay hơi. Một nội dung vi phạm có thể bị xóa đi trong vài giờ, trong khi thủ tục pháp lý để yêu cầu lưu trữ và cung cấp bằng chứng có thể kéo dài hàng tuần.

Thứ ba, bài toán xử lý dòng tiền. Các đối tượng ngày càng tinh vi, họ thanh toán qua các ví điện tử quốc tế, các tài khoản ngân hàng offshore (đặt tại các “thiên đường thuế”) hoặc thậm chí là tiền mã hóa (crypto) để giao dịch. Việc truy vết và phong tỏa các tài sản này là một thách thức lớn đối với các cơ quan chức năng.

Do vậy, song song việc củng cố chế tài, chúng ta cần xây dựng hệ thống dữ liệu liên thông liên ngành giữa các cơ quan chức năng như hải quan, QLTT, thuế, công an nhằm tạo kho dữ liệu tập trung phục vụ việc truy xuất nguồn gốc, nhận diện và xử lý vi phạm.

Tiếp đến, ứng dụng công nghệ nhận diện tự động như sử dụng mã định danh điện tử, tem truy xuất thông minh và hệ thống camera tích hợp trí tuệ nhân tạo (AI) tại các kho bãi, tuyến vận chuyển.

Đồng thời, thiết lập cơ chế cảnh báo sớm như ứng dụng trí tuệ nhân tạo để phân tích hành vi, phát hiện dấu hiệu bất thường trong tiêu dùng và vận chuyển hàng hóa.

Cuối cùng, thành lập lực lượng chuyên trách liên ngành với cơ chế phản ứng nhanh, xử lý hiệu quả ngay từ đầu, thay vì xử lý bị động khi hậu quả đã xảy ra.

P10-11_anhphu1.jpg
Lực lượng Quản lý thị trường tỉnh Quảng Ninh phát hiện kho hàng nhập lậu, vận hành qua phần mềm nước ngoài, ngày 8-7. Ảnh: DMS

. Để giải quyết các thách thức trên, lực lượng chức năng cần những giải pháp đột phá nào về công nghệ và cơ chế phối hợp liên ngành để có thể thực sự đi trước một bước, thay vì luôn trong thế chạy theo xử lý vụ việc đã rồi?

+ Để chuyển từ thế bị động sang chủ động, từ “chữa cháy” sang “phòng cháy”, chúng ta cần tập trung nguồn lực để xây dựng bốn trụ cột đột phá. Đây là một chiến lược tổng thể đang được từng bước triển khai.

Một là dữ liệu lớn liên ngành. Hãy tưởng tượng một kho dữ liệu quốc gia về hàng hóa mang tên “Genuine-360”. Kho dữ liệu này sẽ phá vỡ các “ốc đảo” thông tin giữa hải quan, thuế, QLTT, Ngân hàng Nhà nước và Bộ TT&TT. Kế hoạch này đang được thí điểm tại bốn tỉnh biên giới và sẽ mở rộng trên toàn quốc vào năm 2026.

Hai là truy xuất và nhận diện thông minh. Mục tiêu là trao cho NTD một “máy phát hiện sự thật” trong túi. Chúng ta sẽ chuẩn hóa việc sử dụng tem thông minh kết hợp mã QR được mã hóa (crypto QR), cùng với việc lắp đặt camera AI tại các kho logistics để tự động đọc và xác thực tem.

Ba là phân tích hành vi bằng AI. Một hệ thống “lắng nghe mạng xã hội” và AI sandbox sẽ được triển khai để tự động phát hiện các dấu hiệu bất thường như sự gia tăng đột biến của từ khóa đáng ngờ hay các hình thái thanh toán lạ.

Bốn là tổ công tác hỗn hợp phản ứng nhanh. Đây là một đơn vị tác chiến thực thụ, quy tụ các đơn vị tinh nhuệ từ Cục QLTT, Cục An ninh mạng, các chuyên gia và hiệp hội đã chính thức hoạt động trong năm 2024. Mục tiêu là thực hiện khoảng 58 chiến dịch truy quét mỗi quý.

Điểm mấu chốt của cả bốn trụ cột là đồng bộ hóa quy trình để mỗi vụ việc có thể được giải quyết trọn vẹn trong 30 ngày.

. Xin cảm ơn ông.

Hàng rào pháp lý: Bảo vệ thương hiệu, người tiêu dùng

Trong bối cảnh hàng giả ngày càng tinh vi, DN không thể chỉ dừng lại ở phản ứng thụ động. Thay vào đó, cần chủ động xây dựng hàng rào pháp lý và kỹ thuật để bảo vệ thương hiệu và NTD.

Về kỹ thuật, DN phải đầu tư vào các giải pháp chống giả đa lớp, không thể sao chép, như tôi đã đề cập: Tem QR Code động, công nghệ blockchain để ghi lại toàn bộ nhật ký sản phẩm hoặc tem chip để NTD dễ dàng xác minh. Đồng thời, phát triển ứng dụng truy xuất nguồn gốc giúp khách hàng kiểm tra thông tin sản phẩm chỉ bằng điện thoại thông minh.

Một giải pháp đặc biệt hiệu quả mà nhiều DN còn bỏ ngỏ là thiết lập cơ chế thưởng, khuyến khích NTD tố giác hàng giả: Đây là một trong những công cụ hữu hiệu để biến NTD thành đối tác phòng ngừa rủi ro...

Sau tất cả giải pháp về công nghệ, về phối hợp liên ngành, về vai trò của DN, yếu tố mang tính quyết định, có tính nền tảng và lâu dài nhất chính là nâng cao niềm tin thể chế. Đây là gốc rễ của mọi giải pháp, là thứ không máy móc hay công nghệ nào thay thế được. Khi các yếu tố này được bảo đảm một cách nhất quán và đồng bộ, chúng ta sẽ thiết lập được một môi trường kinh doanh thực sự lành mạnh.

Luật sư Nguyễn Tri Thắng,
Phó Chủ tịch Quỹ chống hàng giả Việt Nam

Nhiều người tiêu dùng vẫn mua nhầm các sản phẩm

Theo đại diện Công ty CP Nhựa Bình Minh, thực tế cho thấy nhiều NTD vẫn mua nhầm các sản phẩm không phải của công ty.

Tình trạng này đặc biệt xảy ra tại một số tỉnh, TP, khi các chủ cửa hàng giao sản phẩm có dấu hiệu khác lạ đến công trình. Nhận thấy điểm bất thường, khách hàng đã liên hệ qua hotline của công ty để xác thực, bởi trong tâm trí họ, thương hiệu Nhựa Bình Minh vốn đã quen thuộc từ lâu.

“Việc NTD có nhu cầu sử dụng Nhựa Bình Minh chính hãng nhưng vô tình mua phải hàng nhái, hàng kém chất lượng có thể dẫn đến nhiều hệ lụy. Họ không chỉ tốn kém chi phí sửa chữa, mất thời gian đi lại mà còn đối mặt với nguy cơ ảnh hưởng đến chất lượng công trình, sức khỏe của chính mình. Đây là điều chúng tôi trăn trở” - đại diện Công ty CP Nhựa Bình Minh nói.

Để giải quyết vấn đề này, bên cạnh việc đẩy mạnh các hoạt động truyền thông giúp nhận diện sản phẩm chính hãng, công ty đang và sẽ tiếp tục kiên trì đấu tranh bằng con đường pháp lý.

“Với uy tín gần 50 năm qua và tư cách là một công ty đại chúng, chúng tôi quyết tâm bảo vệ tài sản thương hiệu đã dày công gây dựng” - vị đại diện chia sẻ và cho rằng việc một DN có thể sử dụng tên gọi và logo gây nhầm lẫn với một thương hiệu uy tín khác nếu không bị xử lý triệt để sẽ tạo ra tiền lệ xấu, khuyến khích các hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

Điều này không chỉ gây tổn hại cho DN chân chính mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường kinh doanh chung.

Để ngăn chặn hàng giả, hàng nhái, các chuyên gia, doanh nghiệp và nhà quản lý sẽ cùng đề xuất những giải pháp chính sách mạnh mẽ, thiết thực tại buổi tọa đàm. Tất cả các ý kiến sẽ được tổng hợp để gửi đến
các cơ quan có thẩm quyền, góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật và quan trọng nhất là khôi phục niềm tin của người tiêu dùng và bảo vệ các doanh nghiệp chân chính.

3nguyen-ngoc-hoa.jpg

Ông NGUYỄN NGỌC HÒA, Chủ tịch Hiệp hội DN TP.HCM (HUBA):

Chống hàng giả, hàng nhái, giúp thị trường minh bạch hơn

Cộng đồng DN hoàn toàn ủng hộ và cảm ơn cơ quan chức năng đã thực hiện các đợt cao điểm chống hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, vì qua đây giúp thị trường minh bạch hơn, môi trường kinh doanh tích cực hơn. Nhiều DN chân chính cũng có “đất sống”, yên tâm để đầu tư sản xuất, thương mại… Chúng tôi mong rằng Nhà nước liên tục duy trì hoạt động kiểm tra từ cấp phép đến các hoạt động thương mại...

Hiện nay, TP.HCM cũng tổ chức nhiều chương trình để nâng cao trách nhiệm của cộng đồng, trong thương mại mua sắm, đơn cử như chương trình “Tick xanh trách nhiệm” của Sở Công Thương. Đây cũng là một giải pháp thể hiện sự đồng hành cùng Chính phủ trong việc truy quét hàng giả, hàng kém chất lượng, thanh lọc thị trường. Điều quan trọng là cả xã hội phải đồng hành và làm lâu dài, không đứt đoạn thì mới xử lý được triệt để gốc rễ.

Ông NGUYỄN TẤN PHONG,
Giám đốc Trung tâm Tư vấn pháp luật thuộc Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM):

Áp dụng các mô hình chống gian lận thành công trên thế giới

Dẹp hàng giả phải cần công nghệ, thể chế và cơ chế phối hợp ảnh 6

Mặc dù pháp luật đã có những quy định và chế tài, xử phạt song công tác thực thi và xử lý vi phạm trên môi trường số vẫn còn nhiều bất cập, chưa đủ sức răn đe. Một trong những nút thắt lớn trong việc truy vết và xử lý vi phạm đối với hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng trên môi trường số nói chung là tính ẩn danh và phân tán thông tin của người bán.

Chính vì thế, VECOM kiến nghị các cơ quan chức năng tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh trên mạng xã hội, sàn thương mại điện tử; làm rõ hơn trách nhiệm của các sàn và nền tảng số để phù hợp với thực tiễn.

Người bán phải minh bạch thông tin, không quảng cáo sai sự thật, không thu thập hay mua bán dữ liệu cá nhân trái phép. Với sản phẩm ảnh hưởng sức khỏe, thông tin quảng cáo càng phải trung thực và có căn cứ khoa học.

Đồng thời, chúng tôi khuyến khích các sàn thương mại điện tử tăng cường đầu tư công nghệ (AI, big data) để tự động phát hiện, ngăn chặn, gỡ bỏ sản phẩm vi phạm và xây dựng quy trình kiểm duyệt người bán, sản phẩm chặt chẽ hơn.

Chúng tôi cũng đề xuất và sẽ tham gia xây dựng cơ chế chia sẻ dữ liệu về các vụ việc, đối tượng vi phạm giữa các sàn thương mại điện tử, cũng như giữa sàn với cơ quan chức năng. Điều này sẽ giúp hình thành một cơ sở dữ liệu chung, phục vụ truy vết, xử lý vi phạm hiệu quả hơn.

Song song đó, chúng tôi sẽ tổ chức các buổi tập huấn, tư vấn pháp luật cho DN về đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ và các giải pháp chống hàng giả trên không gian trực tuyến. Đặc biệt chúng tôi đang nghiên cứu các mô hình chống gian lận thương mại điện tử thành công trên thế giới để đề xuất áp dụng phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

4hinh_NguyenLamThanh_tiktok_boxyk.jpg

Ông NGUYỄN LÂM THANH,
đại diện TikTok Việt Nam:

Nâng cao trách nhiệm của người bán hàng và KOL, KOC

Hàng giả, hàng nhái đang ảnh hưởng tiêu cực đến NTD và DN chân chính. Vì vậy, chúng tôi rất ủng hộ việc siết chặt, xử nghiêm hàng gian, hàng giả, cũng như nâng trách nhiệm của nhà bán hàng và KOL, KOC. Dù vậy, NTD cũng cần phân biệt rõ các nền tảng thương mại điện tử có chức năng thanh toán đã đăng ký với Bộ Công Thương như TikTok Shop và các nền tảng không có chức năng thanh toán.

Bởi khi mua hàng qua TikTok Shop, toàn bộ dữ liệu giao dịch được lưu trữ và có thể truy xuất khi cần, người bán cũng phải cung cấp đầy đủ thông tin pháp nhân, địa chỉ, mã số thuế, cũng như các giấy chứng nhận cần thiết của sản phẩm.

Các sàn cũng luôn có những quy định và dành nhiều nguồn lực, chi phí để chống hàng gian, hàng giả. Mỗi năm TikTok Shop xử lý khoảng 500.000 tài khoản vi phạm, tuy nhiên hiện chỉ dừng ở cấp nền tảng như chặn tài khoản, giới hạn hoạt động, cần có thêm sự phối hợp từ cơ quan chức năng để chấn chỉnh tình trạng này. Chúng tôi cũng kết hợp với Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số để xây dựng chương trình đào tạo về quy định của pháp luật và đạo đức kinh doanh.

Đồng thời triển khai chương trình “An tâm mua sắm” nhằm nâng cao nhận thức của DN, các nhà bán hàng, người có tầm ảnh hưởng và NTD về quyền lợi của NTD khi tham gia mua sắm trực tuyến.

Đọc thêm