Thời bom đạn, ngã ba Bến Thủy là trọng điểm bắn phá ác liệt. Sau cuộc chiến tranh phá hoại, ngã ba Bến Thủy có 9 tập thể, 7 cá nhân được Đảng, Quốc Hội, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý; Anh hùng Lực lượng vũ trang, Anh hùng lao động.
Riêng tập thể phà Bến Thủy được 2 lần phong đơn vị Anh hùng và 2 cá nhân Anh hùng, trong đó có bà Hoàng Thị Liên - người phụ trách cửa hàng ăn uống Bến Thủy suốt 8 năm bám trọng điểm.
Bà kể, Mỹ đánh vào vùng Bến Thủy ngày 5/8/1964, khi đó con bà - cậu bé Trần Văn Quỳnh mới 8 tháng tuổi. Ngày đó, chiến tranh đạn bom rơi như mưa, bà buộc phải đưa cháu về quê Thanh Đồng (huyện Thanh Chương) nhờ mẹ chăm hộ, rồi bươn bả về cơ quan đóng tại thị xã Vinh.
Bà kể rằng, từ tháng 4/1965, cả thị xã sơ tán, riêng bà xin ở lại phục vụ chiến đấu. Trận địa hoạt động ngành thương nghiệp trải khắp thị xã đổ nát, hoang tàn. Bà như con thoi khâu nối từng bộ phận cung ứng thực phẩm, tìm mua nguyên liệu rồi sắp xếp người chế biến, người mang hàng tới trận địa pháo phòng không, binh trạm vận tải, phà Bến Thủy, cảng Bến Thủy... Những ngày ấy, không gian, mặt đất thị xã Vinh như chao đảo, vỡ vụn, khét lẹt bởi bom đạn, chết chóc, căng thẳng...
Nhưng bà Liên với chiếc xe đạp Thống Nhất vẫn miệt mài vượt bãi bom nổ chậm ra ngoại thành tìm mua lương thực, rau xanh, bầu, bí, đậu, củ của bà con nông dân Hưng Nguyên, Nghi Lộc; rồi xuống xuống tận Cửa Hội mua nước mắm. Mà nào phải yên bình như bây giờ. Phải tìm đường tránh, đường tắt vượt qua nhiều trọng điểm đánh, phá của máy bay Mỹ. Bà kể: "Nhiều lúc cứ nghĩ đến các chiến sĩ đang đói phải đánh giặc thế là tôi cùng mấy chị em liều mình băng dưới trời đạn bom mà đi tìm thức ăn về phục vụ... Tôi lúc đó chỉ mong đi tới đâu kiếm được chút rau, hoa quả, cân thịt... là mừng là vui lắm rồi, có nghĩ đến chết chóc mô chú", bà Liên cười nhớ lại.
Sau khi mua được thực phẩm, đêm về, bà và cả tổ phục vụ lại tất tả xay trấu xay gạo, giã bột chế biến bánh nướng, bánh bao, cơm nắm, rồi cả phở “không người lái” để kịp chuyển ra các điểm phân phối trọng điểm, vượt sông bờ Bắc Bến Thủy.
Quăng quật, chao đảo đạn bom dưới căn hầm nửa chìm, nửa nổi cách mố bắc bến phà chưa tới 800m, bà Liên cùng tổ phục vụ ăn uống vẫn đều đặn mỗi ngày bảo đảm suất ăn cho công nhân phà Bến Thủy, nhà máy điện, cảng Bến Thủy, các đoàn xe quân sự vượt sông Lam.
Đoàn của bà với 6 chị em mỗi ngày đêm lo 3.000 suất ăn cho cảng Bến Thủy, 800 suất ăn cho phà Bến Thủy, 1.500 suất ăn cho nhà máy điện Vinh, 250 suất ăn cho nhà máy sửa chữa ô tô B230. Đấy là chưa tính những thời khắc phà tắc, hàng trăm chiếc xe phải sơ tán, tổ ăn uống Bến Thủy còn phải lo đủ bữa ăn cho các đơn vị bộ đội nằm chờ vượt sông.
"Ngày đó tôi cùng mấy chị em phục vụ ăn uống cho các chiến sĩ làm nhiệm vụ bảo vệ vùng Bến Thủy này cũng như nhiều cán bộ đi B mà có nghĩ gì đâu, chỉ mong họ được ăn, được uống để chiến đấu thôi. Giờ tôi nghĩ lại, cái ngày bom đạn cày như cày ruộng mà mấy chị em phục vụ hàng ngàn suất ăn thật là phi thường quá", bà Liên nhớ lại.
Bà Liên cũng nhớ lại cái ngày chiến tranh ác liệt không được giấc ngủ ngon: “Công việc túi bụi, chị em chúng tôi tranh thủ chợp mắt ngay trong căn hầm, bên bếp lửa, thương nhớ chồng con cũng chỉ nhoáng về một lát rồi lại quay về căn hầm khoét sâu vào núi Quyết chuẩn bị suất ăn cho hàng nghìn người đang bám trụ tại phà Bến Thủy”.
Chiến tranh phá hoại làm ngưng trệ hoạt động cung cấp lương thực, thực phẩm. Bà Liên cùng với các chị trong tổ đã phải đi thu gom số gạo bị bom đạn xé nát, bị ngấm nước từ các kho chứa lương thực, tổ chức xay bột chế biến các loại bánh, bún, phở. Chị Liên hướng dẫn chị em xay bột đậu xanh làm nhân bánh, cốt sao bảo đảm nhu cầu “ăn no, ăn có sức mà đánh Mỹ”. Cố gắng là vậy nhưng bà vẫn thấy mình có lỗi khi không thể lo cho các chiến sĩ những bữa ăn đảm bảo dinh dưỡng hơn.
"Hồi đó nghĩ là quyết luôn, tôi đạp xe tới các hợp tác xã nông nghiệp ở Nghi Đức, Nghi Phong (huyện Nghi Lộc ngày nay), xã Nam Cường (huyện Nam Đàn) xin mua lại những con bò gầy yếu, không còn sức cày kéo để về vỗ béo. Tôi mua hàng trăm con bò thải gom về nuôi trong những căn hầm dưới chân núi Quyết. Rồi đến những cánh đồng hoang, cỏ mọc tốt tươi bên hố bom, trong khuôn viên cơ quan, phường, xã, khu phố sơ tán trở thành nguồn thức ăn cho đàn bò của tôi được béo lên và làm thịt phục vụ chiến tranh", bà kể.
Thời đó, bà cũng thuê người chăn dắt, quản lí chặt chẽ từng con bò mỗi ngày. Những con bò trong chiến tranh cũng quen dần với hầm hào, quen với tiếng bom đạn, với tiếng gào rú của máy bay Mỹ dần dà con nào con nấy béo lên. Nguồn thực phẩm tươi sống dồi dào ấy đã giúp bà Liên cải thiện bữa ăn cho biết bao người lính Trung đoàn 280, Trung đoàn 233, Trung đoàn 214, công nhân phà Bến Thủy, cảng bến Thủy, nhà máy điện, đoàn vận tải Hồng Hà, binh trạm 9…
Bà Liên nhớ lại: “Có ngày cửa hàng mổ thịt tới 7 con bò đã vỗ béo. Tôi còn thuê người vỡ đất hoang dưới chân núi Quyết trồng mấy nghìn mét vuông mía, đổi mía cây lấy hàng nghìn tấn đường chế biến bánh, kẹo, nước giải khát. Tôi còn tận dụng hố bom nuôi cá, xây bể thả lươn, nuôi chim bồ câu, tăng nguồn thực phẩm tươi sống, nâng chất lượng thức ăn phục vụ khách hàng trong những năm tháng thiếu thốn trăm bề”.
Được giao phụ trách 10 cửa hàng phục vụ ăn uống ở thị xã Vinh lúc bấy giờ, khi mà mấy năm liên tục lửa đạn ngút trời, bà Liên vận động chị em nuôi lợn thịt dưới hầm, dưới hào. Còn bà thì đạp xe lên tận hợp tác xã ba Tơ (xã Hưng Thái, huyện Hưng Nguyên), gặp gỡ anh hùng nông nghiệp Cao Lục liên kết nuôi lợn nái, lợn thịt. Lãnh đạo tỉnh ngỡ ngàng, đồng nghiệp ngành thương nghiệp Nghệ Tĩnh thời đó sửng sốt khi biết bà Liên có đàn lợn thịt gần 500 con và đàn lợn sinh sản gần 200 con.
Có vị lãnh đạo Bộ Nội thương thời đó vào Khu 4 từng nói về sự táo bạo, năng động của bà Liên: “Chừng ấy khối lượng hàng hóa, chừng ấy công việc phải điều hành nếu trong thời bình đã là một sự thách thức lớn đối với người quản lí nam giới. Bà ấy đã làm được trong hoàn cảnh cực kì khó khăn. Bà ấy quả là anh hùng”.
Điều tiên đoán ấy từ năm 1971 đã trở thành hiện thực khi Đảng, Quốc Hội, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động cho bà Hoàng Thị Liên vào năm 1985. Sau ngày được phong Anh hùng, bà Liên được giao cương vị quản lí cao hơn và với phẩm chất, bản lĩnh trải nghiệm trong chiến tranh, bà đã vực dậy cả một công ty làm ăn thua lỗ, trả được món nợ Nhà nước gần 3 tỉ đồng vào những năm đầu đổi mới.
Với bà, hôm nay vẫn còn đọng mãi ký ức về lớp chiến sĩ trẻ vào chiến trường thuở bom đạn đã được bà chăm sóc từng suất ăn, giấc ngủ trong mấy căn hầm dã chiến.
Bà kể: “Thời đó ai cũng trẻ lắm, đứa nào cũng gửi lại một vài vật kỷ niệm, hẹn ngày chiến thắng gặp tôi. Sau giải phóng miền Nam, một tốp chiến sĩ đã tìm tới cửa hàng gặp tôi. Chúng nó công kênh tôi lên rồi hét to: “Thế là sống rồi chị ơi!”. Thế nhưng phần đông trong số họ không bao giờ thực hiện được lời hứa với tôi. Họ nối nhau ngã xuống ở chiến trường vì cuộc sống yên bình hôm nay”. Bà nói rồi lau vội giọt nước mắt.
Trong 8 năm thực hiện chiến tranh phá hoại, ngăn chặn hệ thống giao thông, vận tải chi viện miền Nam, ngã ba Bến Thủy, được ví như “cuống họng Khu 4”. Không quân và hải quân Mỹ đã ném xuống đây 25.898 quả bom các loại, bắn từ biển vào 1.371 viên đạn pháo từ 230 li đến 406 li. Trên diện tích mặt đất và mặt sông rộng khoảng 1km2, từ ngày 5 tháng 8 năm 1964 đến trước ngày ký Hiệp định Pa-ri, lực lượng bảo đảm giao thông, công nhân nhà máy điện, nhà máy gỗ, cảng Bến Thủy… phải gồng mình, đối mặt với 3.498 trận đánh phá khốc liệt. |
Theo Nguyễn Duy (Dân trí)