Mới đây, ông Minh Tuệ, tên thật là Lê Anh Tú (43 tuổi, ngụ thôn 6, xã Ia Tô, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai) gửi đơn đề nghị cơ quan chức năng xử lý các cá nhân phát tán hình ảnh ông lên mạng xã hội mà chưa được phép của ông.
Theo đơn của ông Minh Tuệ gửi đến Công an tỉnh Gia Lai, ông đề nghị mọi người không tụ tập đông người làm mất an ninh trật tự, an toàn giao thông; không quay phim, chụp ảnh cá nhân ông đưa lên mạng xã hội, gây ảnh hưởng đến quá trình tu tập của ông.
Qua sự việc trên, bạn đọc thắc mắc việc sử dụng trái phép hình ảnh bị xử lý ra sao, quyền nhân thân về hình ảnh được bảo vệ như thế nào? Khi cá nhân có đơn đề nghị cơ quan chức năng bảo vệ hình ảnh thì quy trình giải quyết?
Luật sư Phùng Văn Hiệu, Đoàn Luật sư tỉnh Bình Dương, cho biết cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình được quy định theo Điều 32 Bộ luật Dân sự 2015. Cụ thể, quyền hình ảnh là một phần của quyền nhân thân, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Đồng thời cá nhân có quyền quyết định việc sử dụng hình ảnh của mình, bao gồm cả việc yêu cầu sự đồng ý trước khi hình ảnh được sử dụng cho bất kỳ mục đích nào; trừ một số trường hợp sử dụng hình ảnh cá nhân vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng..
Nếu hình ảnh được sử dụng cho mục đích thương mại, người có hình ảnh thường có quyền yêu cầu thù lao, trừ khi có thỏa thuận khác. Hành vi tự ý sử dụng hình ảnh của cá nhân có thể bị yêu cầu dừng ngay lập tức và chịu các biện pháp xử lý theo quy định pháp luật. Do đó, việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được sự đồng ý.
Điều 38 Bộ luật Dân sự 2015 quy định đời sống riêng tư, bí mật cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Việc sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý. Việc tự ý đăng ảnh người khác khi chưa có sự đồng ý của người đó hoặc đăng ảnh có liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân khi chưa có sự đồng ý của người đó là hành vi vi phạm pháp luật, có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo đó phạt tiền từ 10 - 30 triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm.
Ngoài ra, người có hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác còn phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu.
Khi phát hiện hình ảnh cá nhân bị đăng lên mạng, người dân có thể liên hệ người đăng tải để yêu cầu gỡ bỏ. Bên cạnh đó có thể khởi kiện ra tòa đối với hành vi sử dụng hình ảnh khi chưa có sự đồng ý và hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín; yêu cầu tòa án bác bỏ thông tin sai sự thật, thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và yêu cầu xin lỗi theo quy định trên. Nghiêm trọng hơn, cá nhân có thể tố cáo đến cơ quan công an để yêu cầu xử lý theo quy định pháp luật đối với hành vi xâm phạm quyền về hình ảnh, cũng như danh dự, uy tín.
Khi cá nhân có đơn đề nghị bảo vệ quyền hình ảnh, cơ quan chức năng sẽ áp dụng các biện pháp pháp lý sau để bảo vệ quyền lợi của công dân, quy trình như sau:
a) Tiếp nhận và xác minh đơn đề nghị
Ngay khi nhận được đơn đề nghị bảo vệ quyền hình ảnh, cơ quan chức năng sẽ tiến hành thẩm định và xác minh các thông tin liên quan, bao gồm: thông tin người tố cáo, nội dung vi phạm, và các bằng chứng kèm theo (hình ảnh, tin nhắn, nội dung đăng tải trái phép). Đây là bước quan trọng nhằm xác định tính chính xác và mức độ vi phạm để quyết định các biện pháp xử lý tiếp theo.
b) Yêu cầu người vi phạm chấm dứt hành vi xâm phạm
Cơ quan chức năng sẽ yêu cầu người vi phạm chấm dứt ngay hành vi sử dụng hình ảnh trái phép, đồng thời yêu cầu gỡ bỏ, tiêu hủy hình ảnh bị phát tán. Biện pháp này nhằm ngăn chặn tác động xấu về danh dự và uy tín của cá nhân ngay khi hành vi vi phạm được xác minh. Trong nhiều trường hợp, người vi phạm sẽ nhận thức rõ hậu quả và thực hiện yêu cầu của cơ quan chức năng.
c) Bắt buộc cải chính và xin lỗi công khai
Nếu hành vi vi phạm ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của người bị hại, cơ quan chức năng có thể yêu cầu người vi phạm thực hiện cải chính thông tin và xin lỗi công khai để khôi phục danh dự cho cá nhân bị xâm phạm. Đây là biện pháp hiệu quả trong các trường hợp thông tin sai lệch hoặc hành vi bôi nhọ được đăng tải công khai.
d) Áp dụng biện pháp xử phạt hành chính
Trong trường hợp người vi phạm không hợp tác, cơ quan chức năng có thể xử phạt hành chính theo các mức phạt được quy định tại Nghị định 15/2020, với mức phạt từ 10 triệu đến 20 triệu đồng cho các hành vi lợi dụng mạng xã hội để xâm phạm danh dự, nhân phẩm của cá nhân khác. Các biện pháp xử phạt hành chính còn nhằm răn đe và giáo dục để giảm thiểu các hành vi vi phạm tương tự trong tương lai.
e) Truy cứu trách nhiệm hình sự
Trong các trường hợp nghiêm trọng, nếu hành vi vi phạm có tính chất xúc phạm, vu khống, hoặc gây tổn thương tâm lý nặng nề, người vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với một số tội danh theo Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), bao gồm: Tội làm nhục người khác (Điều 155); Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông (Điều 288); Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy (Điều 326); và Tội làm nhục đồng đội (Điều 397). Mức phạt sẽ phụ thuộc vào tính chất và mức độ của hành vi, với các hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến phạt tù, tùy từng trường hợp cụ thể.
f) Hỗ trợ khởi kiện và yêu cầu bồi thường thiệt hại
Cơ quan chức năng sẽ hỗ trợ nạn nhân trong quá trình khởi kiện dân sự để yêu cầu bồi thường thiệt hại vật chất và tinh thần. Theo Điều 592 Bộ luật Dân sự 2015, các khoản bồi thường bao gồm:
- Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại.
- Thu nhập bị mất hoặc giảm sút.
- Bồi thường tổn thất tinh thần với mức tối đa có thể lên đến 10 lần mức lương cơ sở (theo quy định tại Điều 592 BLDS), tùy theo mức độ tổn thất và thỏa thuận giữa các bên.
g) Giám sát và theo dõi việc thực hiện quyết định bảo vệ
Cơ quan chức năng có trách nhiệm giám sát chặt chẽ việc thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền hình ảnh của người bị hại, bao gồm việc chấm dứt hành vi vi phạm, thực hiện cải chính và xin lỗi công khai, cũng như việc bồi thường thiệt hại. Nếu người vi phạm không tuân thủ các yêu cầu, cơ quan chức năng có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo pháp luật.
Có thể thấy pháp luật Việt Nam bảo vệ quyền hình ảnh cá nhân thông qua các quy định cụ thể, đồng thời cho phép các cơ quan chức năng can thiệp khi quyền hình ảnh bị xâm phạm. Cá nhân khi bị xâm phạm quyền hình ảnh có thể yêu cầu dừng hành vi vi phạm, xử lý hành chính hoặc hình sự đối với người vi phạm, cũng như yêu cầu bồi thường. Các biện pháp này đảm bảo quyền lợi và bảo vệ danh dự, nhân phẩm của người dân trong bối cảnh xã hội phát triển và hội nhập.