Theo tôi, trước hết chúng ta phải quán triệt sâu sắc tinh thần hai nghị quyết 08 và 49 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp. Theo đó, vai trò tranh tụng tại tòa được đề cao, mọi phán quyết của tòa phải dựa trên cơ sở tranh tụng. Tiếp đến phải thực hiện nghiêm túc Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự (khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật) cùng Điều 222 (chỉ có thẩm phán và hội thẩm nhân dân mới có quyền nghị án. Các thành viên của hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số từng vấn đề một)...
Thực tế nếu phát sinh vụ án phức tạp, nhạy cảm thì ngoài việc phải tuân thủ quy định pháp luật, hội đồng xét xử phải báo cáo với chánh án để tổ chức tốt công tác xét xử. Cạnh đó, họ phải trao đổi với ủy ban thẩm phán để được phản biện về đường lối giải quyết nhằm bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật. Tuy nhiên, hội đồng xét xử vẫn là người phải chịu trách nhiệm về các quyết định của mình trước pháp luật.
Do đặc thù công tác quản lý của ngành, ngoài chức năng quản lý hành chính với tư cách là thủ trưởng cơ quan, chánh án tòa án còn là người đứng đầu ủy ban thẩm phán. Chánh án có nhiệm vụ bảo đảm việc áp dụng pháp luật thống nhất tại tòa án cấp mình và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn về tố tụng như tổ chức xét xử, phân công người tiến hành tố tụng... Trong một số trường hợp, chánh án đã nhầm lẫn giữa công tác quản lý hành chính với việc thực hiện các quyết định về tố tụng theo thẩm quyền luật định. Cụ thể, trước khi mở phiên tòa, chánh án buộc thẩm phán chủ tọa phải báo cáo tất cả các vụ án được phân công xét xử, buộc phải chấp hành ý kiến của chánh án và ủy ban thẩm phán.
Tôi nghĩ rằng sự nhầm lẫn giữa công tác quản lý hành chính với thực hiện chức năng tố tụng của chánh án là rất nguy hiểm vì các lẽ sau đây:
Thứ nhất, hội đồng xét xử là người trực tiếp điều khiển việc tranh tụng tại phiên tòa nên đã lắng nghe tất cả các ý kiến của đại diện VKS, luật sư cùng những người tham gia tố tụng khác. Hội đồng xét xử là người nắm chắc nhất các tình tiết của vụ án đang xử. Do vậy, nếu các quyết định của vụ án đã được thực hiện trước khi xét xử theo chế độ “báo án” thì việc tranh tụng tại phiên tòa chỉ là hình thức.
Thứ hai, nếu chúng ta duy trì chế độ “báo án” theo phương thức như bài báo nêu thì mặc nhiên chúng ta sẽ tạo ra một sự thụ động, hạn chế sự suy nghĩ độc lập của thẩm phán khi xét xử. Bởi lẽ trong suy nghĩ của thẩm phán sau báo án đã tập trung vào hướng giải quyết vụ án theo ý kiến kết luận của chánh án hoặc ủy ban thẩm phán.
Thứ ba, trong trường hợp vụ án có oan, sai phải xử lý trách nhiệm của người tiến hành tố tụng thì không ai khác chính thẩm phán chủ tọa phiên tòa và hội đồng xét xử phải chịu trách nhiệm về các quyết định của họ trước pháp luật. Điều đó sẽ tạo ra sự bất công khi chính chế độ báo án theo phương thức trên đã chi phối hội đồng xét xử, làm bản thân hội đồng xét xử không quyết định được những vấn đề theo nhận thức và thẩm quyền của họ.
Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đến cải cách tư pháp. Chỉ trong một thời gian ngắn, Bộ Chính trị đã ban hành hai nghị quyết 08 và 49 nêu rõ tầm quan trọng của việc tranh tụng tại tòa. Quá trình thực hiện các nghị quyết của Đảng cùng với việc áp dụng đúng đắn các quy định tố tụng hình sự, công tác xét xử của ngành tòa án đã từng bước phát triển tốt, hạn chế được oan, sai. Hơn ai hết, cán bộ, công chức ngành tòa án cần phải nắm và áp dụng đúng nghị quyết của Đảng, pháp luật nhà nước trong xét xử, hết sức tránh những nhận thức về pháp luật không chính xác ảnh hưởng đến chất lượng công tác xét xử và lãnh đạo công tác xét xử.
PHẠM CÔNG HÙNG