Người Việt tự hào áo dài là một trang phục đặc trưng của mình với từ "Áo dài" (ao dai /ˈaʊ ˌdʌɪ/) được đưa nguyên bản vào từ điển Oxford và được giải thích là loại trang phục của phụ nữ Việt Nam với thiết kế hai tà áo trước và sau dài chấm mắt cá chân che bên ngoài chiếc quần dài.
Đã có nhiều so sánh, nhầm lẫn chiếc áo dài của người Việt Nam với chiếc sườn xám của dân tộc Trung Hoa. Song, áo dài của Việt Nam đã có cội nguồn Việt từ cả vài trăm năm trước. Hồn Việt luôn mãi ở trong chiếc áo dài ngàn năm không đổi dù cuộc sống và hình dạng chiếc áo dài có thay đổi đến đâu.
Tiến trình hình thành chiếc áo dài hiện đại từ rộng rãi đến ôm sát, nhấn eo như ngày hôm nay, để chiếc sườn xám nhìn có nét hao hao, hoàn toàn ảnh hưởng từ văn minh phương Tây trong sáng tạo của người Việt, không lưu dấu văn hóa Trung Quốc.
Đến năm 1744, tại Đàng Trong, Việt Nam, dưới thời cai trị của chúa Nguyễn Phúc Khoát, các nhà nghiên cứu trang phục Việt cho rằng chiếc áo dài Việt bắt đầu manh nha xuất hiện.
Từ đó có sự thay đổi y phục, đổi phong tục, nam nữ sĩ thứ trong nước, đều mặc áo nhu bào, mặc quần, vấn khăn, tục gọi quần chân áo chít bắt đầu từ đây.
Đây cũng là bộ trang phục đầu tiên có xẻ tà ở eo, một trong những điểm đặc biệt trong áo dài hiện đại. Áo dài ngũ thân tồn tại đến đầu thế kỷ 20.
Ngày 23-3-1934, trên Báo Phong Hóa đã cho đăng hình ảnh những chiếc áo dài cách tân với tên gọi áo dài Lemur của họa sĩ Cát Tường. Chiếc áo dài này có những đường nét cơ bản của áo dài truyền thống hiện nay với hai tà, xẻ eo, nhấn eo để tôn dáng tôn ngực. Tuy nhiên chiếc áo dài Lemur mang nhiều dáng dấp Âu hóa như tay phồng, cổ bồng, cổ hở, cổ có gắn nơ.
Lúc này, chiếc áo dài Lemur đã được họa sĩ Cát Tường hoàn thiện thêm với phần nịt ngực như áo bơi để mặc thay cho áo yếm truyền thống, giúp chiếc áo dài Lemur vừa giữ được sự kín đáo của người phụ nữ Việt vừa tôn dáng vẻ người phụ nữ.
Từ chiếc áo dài Lemur, họa sĩ Lê Phổ đã tiếp tục cải tiến khiến chiếc áo dài gần giống với áo dài truyền thống hôm nay. Tức chiếc áo dài qua thiết kế của họa sĩ Lê Phổ đã có cổ, cài nút bên phải, tay không còn phồng. Tuy nhiên, ở giai đoạn này chiếc áo dài có nhược điểm bị chùng vải ở nách tay vì tay không ráp xéo.
Nhược điểm này đã được nhà may Dung ở khu Đa Kao, Sài Gòn khắc phục vào năm 1960 với kiểu tay áo cắt xéo vào nách tránh được sự dư vải, nhăn vải ở nách người mặc gọi là áo dài tay raglan.
Năm 1958, bà Trần Lệ Xuân, lúc đó là vợ của ông Ngô Đình Nhu – cố vấn trong chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm đã phổ biến chiếc áo dài không cổ, có thể xuất phát từ mẫu thiết kế của một nhà tạo mẫu người Mỹ gốc Nhật vẽ kiểu được nữ diễn viên Kiều Chinh trình diễn lần đầu tiên tại Sài Gòn cùng thời điểm.
Sau 1975, do đời sống chính trị xã hội có sự thay đổi trong buổi giao thời nên chiếc áo dài gần như biến mất. Mãi đến thập niên 1990, chiếc áo dài mới trở lại trong đời sống của người Việt một cách mạnh mẽ.
Nữ sinh, giáo viên, nhân viên công sở, ngân hàng, tiếp viên hàng không… đi làm, đi học đều mặc áo dài như đồng phục.
Từ nhiều năm qua Festival Huế liên tục có những đêm lễ hội áo dài hoành tráng, lung linh rực rỡ. Cho đến nay, Sở Du lịch TP.HCM cũng đã nhiều lần tổ chức thành công Lễ hội áo dài TP.HCM vào tháng ba khiến phong trào mặc áo dài trong đời sống người dân càng thêm trăm hoa đua nở.
Song, bên cạnh những biến tấu làm chiếc áo dài ngày càng đẹp và hiện đại, vẫn có những biến tấu làm chiếc áo dài trở nên hở hang, thô kệch và kỳ dị đến không còn nhận ra đó là chiếc áo dài.
Bởi thế, công luận luôn đòi hỏi ở mỗi chiếc áo dài phải thật sự mang trong mình nó hồn Việt, tức vẻ duyên dáng, kín đáo, mềm mại nhưng vẫn tôn dáng vẻ của phụ nữ Việt.