Pháp lý vụ đề​ nghị​ ngăn chặn​ đất của bà​ Trần Uyên​ Phương

Báo Pháp Luật TP.HCM từng có bài phản ánh ý kiến các bên liên quan đến vụ đề nghị ngăn chặn 33 thửa đất, trong đó có 29 thửa của bà Trần Uyên Phương (phó tổng giám đốc Tập đoàn Tân Hiệp Phát) tại 230 Hồ Học Lãm, phường An Lạc, quận Bình Tân, TP.HCM.

Vụ việc đang được TAND quận Bình Tân, TP.HCM giải quyết bằng vụ kiện dân sự thụ lý từ năm 2019. Đồng thời, Bộ Công an cũng đang xác minh đơn tố cáo của ông Nguyễn Văn Chung cho rằng bà Phương và ông Nguyễn Phi Long (ngụ phường 14, quận 6) có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Kết quả giải quyết cuối cùng sẽ do cơ quan có thẩm quyền kết luận; tuy nhiên, ở khía cạnh pháp lý, nhiều bạn đọc quan tâm quan hệ pháp luật giữa các bên trong vụ án là gì.

Một phần khu đất 230 Hồ Học Lãm liên quan đến vụ việc. Ảnh: PV

Thuần túy quan hệ dân sự

Luật sư (LS) Trần Bá Học, Đoàn LS TP.HCM, nhận định qua nghiên cứu nội dung đơn tố cáo của ông Chung và ý kiến của các bên trên báo chí thì đây thuần túy là giao dịch dân sự.

Theo LS Học, gần như không thấy có dấu hiệu hình sự nào liên quan đến hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản như đơn tố cáo của ông Chung. Bởi bản thân các giao dịch mà các bên đã ký kết đã thể hiện rõ những nội dung mang tính tự nguyện. Khi các bên ký kết hợp đồng chuyển nhượng một phần thửa đất tại 230 Hồ Học Lãm thì điều khoản của hợp đồng là những thỏa thuận dân sự.

Mới đây TAND quận Bình Tân, TP.HCM đã có công văn hỏi Cơ quan CSĐT Bộ Công an (nơi có văn bản đề nghị ngăn chặn 29 thửa đất đứng tên bà Phương) xem quan điểm của cơ quan này về vụ việc ra sao để có đường hướng xử lý. Được biết Cơ quan CSĐT Bộ Công an cũng có công văn gửi TAND quận đề nghị cung cấp tài liệu phục vụ công tác điều tra, xác minh. 

LS Trần Bá Học phân tích: Nếu cho rằng có sự lừa dối để bị hại tin là sự thật mà giao tài sản rồi bị chiếm đoạt thì điều kiện cần và đủ là yếu tố gian dối phải có trước khi thực hiện giao dịch và tài sản đã bị chiếm đoạt thuộc quyền sở hữu của bị hại. “Theo đơn tố cáo, chúng ta thấy rõ phần đất mà ông Chung cho rằng bị chiếm đoạt chưa đứng tên ông này mà vẫn đứng tên chủ đất là vợ chồng ông Lâm Hoàng” - LS Học nói.

Đồng quan điểm, TS Đoàn Thị Phương Diệp, Trưởng Phòng thanh tra pháp chế, Trường ĐH Kinh tế - Luật TP.HCM, cho rằng nếu chỉ căn cứ vào lời khai của ông Chung thì dấu hiệu của việc lừa đảo là chưa rõ. Lý do là tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 BLHS phải là nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản. Trong vụ này, ông Chung không giao tài sản gì cho bà Phương hay ông Long, nếu không mất tài sản gì sao gọi là lừa đảo chiếm đoạt tài sản?

Đường vào khu đất. Ảnh: PV

“Mặt khác, việc bà Phương mua một phần khu đất 230 Hồ Học Lãm và trả tiền là các giao dịch ký với vợ chồng ông Lâm Hoàng với sự có mặt của rất nhiều người, thậm chí có cả LS của ông Hoàng. Các bên đều biết rõ về giao dịch là hợp đồng mua bán tài sản, việc có hợp đồng giả cách hay không còn chưa rõ. Do đó, nội dung đơn tố cáo của ông Chung đối với bà Phương là chưa có cơ sở, tất nhiên cần phải chờ kết quả giải quyết của cơ quan có thẩm quyền” - TS Diệp nhận định.

Lừa dối trong dân sự khác lừa đảo trong hình sự

Theo LS Trần Bá Học, pháp luật quy định trong các giao dịch dân sự có thể có những vi phạm mang tính lừa dối hoặc vi phạm điều cấm dẫn đến giao dịch vô hiệu. Như vậy, yếu tố lừa dối trong giao dịch dân sự (nếu có) thì vẫn không thể đánh đồng đó là lừa đảo trong tội phạm hình sự.

“Chúng ta không thể đánh đồng hai khái niệm lừa dối trong dân sự với lừa đảo trong hình sự. Đây là một sai lầm cơ bản dẫn đến những nhận định thiếu chính xác, khách quan về mặt cấu thành tội phạm” - LS Học nêu quan điểm.

LS Học phân tích, với những thông tin hiện có thì ngay cả ở khía cạnh giao dịch dân sự có hợp đồng giả tạo hay không vẫn chưa thể khẳng định được chứ chưa nói đến yếu tố hình sự.

Một góc khu đất. Ảnh: PV

Trong trường hợp có tài liệu, chứng cứ chứng minh việc vay mượn giữa hai bên và có thỏa thuận “tạm thời” giao cho bên bị tố cáo đứng tên, sau đó khi trả tiền vay sẽ trả lại tài sản thì giao dịch có thể dẫn đến bị vô hiệu do giả tạo (giao dịch chuyển nhượng đất). Nghĩa là các mối quan hệ này vẫn là quan hệ dân sự.

“Điều đáng chú ý là tại sao ông Chung đã có đơn khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự và thực tế là TAND quận Bình Tân đang giải quyết mà lại tiếp tục tố cáo ra công an. Trong khi ông Chung hoàn toàn có quyền kiến nghị về dấu hiệu lừa đảo để tòa án xem xét, nếu có cơ sở thì tòa sẽ tạm đình chỉ vụ án để chuyển qua cơ quan điều tra theo quy định” - LS Trần Bá Học bày tỏ.

Tương tự, PGS-TS Nguyễn Thị Hồng Nhung, Trưởng Khoa luật, Trường ĐH Kinh tế - Luật TP.HCM, cho rằng nếu chỉ dựa vào đơn tố cáo của ông Chung thì không thể xác định được đúng sự thật khách quan. Quan trọng là ông Chung cần đưa ra được các chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là đúng hay không.

“Nếu ông Chung chỉ có đơn tố cáo mà không có chứng cứ cho thấy có tồn tại hợp đồng cho vay tiền giữa hai bên như ông Chung nói thì đây chỉ là quan hệ mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Trường hợp chứng minh được hợp đồng chuyển nhượng là hợp đồng giả cách, có tồn tại quan hệ vay mượn, có thế chấp tài sản thì đây cũng chỉ là quan hệ dân sự. Lúc này các bên có thể yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng giả cách là vô hiệu theo quy định của BLDS” - PGS-TS Hồng Nhung nói.

Tóm tắt nội dung vụ việc

Như Pháp Luật TP.HCM đã phản ánh, theo đơn tố cáo của ông Chung, bà Phương và ông Long có dấu hiệu lừa đảo vì cho ông vay 35 tỉ đồng nhưng yêu cầu ký hợp đồng giả cách chuyển nhượng đất. Theo đó, ông đặt cọc mua toàn bộ nhà, đất tại 230 Hồ Học Lãm của vợ chồng ông Lâm Hoàng nhưng thiếu tiền nên vay 35 tỉ đồng. Theo yêu cầu của ông Chung, vợ chồng ông Hoàng ký công chứng bán một phần đất cho bà Phương. Sau đó ông Chung trả tiền vay và yêu cầu bà Phương trả lại đất. Ông Chung cũng yêu cầu ông Long trả lại sổ hồng một thửa đất khác đã cầm cố để vay ông Long 24 tỉ đồng.

Phía bà Phương thì cho rằng hồ sơ thể hiện ngày 11-1-2019, vợ chồng ông Hoàng ký công chứng một phần nhà, đất 230 Hồ Học Lãm cho bà và bà đã trả hết tiền. Bảy ngày sau, cơ quan nhà nước đã cập nhật thông tin bà Phương là người đứng tên trong sổ hồng và bà đã tách thành 29 thửa nhỏ hợp pháp.

Các giao dịch mà bà Phương đã thực hiện không phải giả cách mà hoàn toàn là sự tự nguyện giữa các bên thông qua hợp đồng chuyển nhượng và đã nhận đủ tiền, không thể có yếu tố chiếm đoạt. Ông Chung tố cáo bà Phương là không có cơ sở vì hai người này không quen biết nhau, chưa từng gặp nhau và thực tế không thực hiện giao dịch nào với nhau nên không thể lừa đảo.

Trước đó, ông Chung đã khởi kiện bà Phương đòi phần đất đang đứng tên bà Phương. Ông Long khởi kiện ông Chung tranh chấp hợp đồng vay 24 tỉ đồng. Do đó, tháng 11-2019, TAND quận Bình Tân, TP.HCM nhập hai vụ kiện thành một để giải quyết chung (tòa cũng đã ngăn chặn chuyển nhượng 29 thửa đất trên).

Từng trả lời trên Pháp Luật TP.HCM, ông Chung cho biết việc vay số tiền 35 tỉ đồng của bà Phương không có hợp đồng vay, còn việc vay 24 tỉ đồng giữa ông và ông Long thì có hợp đồng. Ngoài ra, nội dung trong đơn tố cáo cũng cơ bản giống đơn khởi kiện. Ông Long thì cho rằng ông Chung tố cáo không đúng sự thật, có gì phải chịu trách nhiệm… 

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm