Sài Gòn - TP.HCM có được diện mạo, trình độ phát triển và chất lượng sống như ngày hôm nay không thể không nói đến vai trò của các yếu tố công nghệ-kỹ thuật được du nhập từ bên ngoài vào mà chủ yếu là từ các nước phương Tây. Tiến trình du nhập này diễn ra sớm nhất, nhanh nhất và hoàn thiện nhất so với tất cả vùng miền trong cả nước.
Lòng chảo xanh với tâm điểm là nhà thờ Đức Bà
Bắt đầu từ những năm 1860 trở đi, khi người Pháp đến Việt Nam thì tình hình các đô thị Việt Nam đã đổi khác. Có thể mục đích của họ không hoàn toàn tốt đẹp nhưng phải ghi nhận chính họ là người đầu tiên đã đưa vào đất nước này những công nghệ-kỹ thuật tiến bộ của đô thị phương Tây, trước hết là vào TP Sài Gòn. Vào thời điểm mà người Pháp đến Việt Nam, lúc này chủ nghĩa tư bản đã phát triển được hơn 100 năm, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp đã phát triển rất mạnh mẽ ở các nước phương Tây và các thành tựu của nó đã được ứng dụng trực tiếp vào phát triển đô thị.
Điều đầu tiên và quan trọng nhất là công tác quy hoạch không gian đô thị. Vào trước năm 1860, về cơ bản Sài Gòn còn là một vùng đất rất hoang sơ, chưa có sự tham gia nhiều bởi bàn tay con người. Năm 1859, người Pháp tấn công Sài Gòn thì ngày 30-4-1862 bản đề án quy hoạch Sài Gòn hiện đại đầu tiên được đệ trình bởi vị đại tá công binh người Pháp tên là Coffyn theo chỉ thị của đô đốc Pháp Bonard. Bản đề án đầu tiên thiết kế Sài Gòn có diện tích khoảng 25 km2 với sức chứa vào khoảng 500.000 dân. Tuy đề án Coffyn không được triển khai hoàn toàn trong thực tế nhưng những ý tưởng ban đầu của nó là tiền đề cực kỳ quan trọng cho một Sài Gòn hiện đại sau này. Tiếp sau Coffyn là một số nhà quy hoạch danh tiếng khác của Pháp tham gia quy hoạch Sài Gòn như Aries và Betraux. Đề án quy hoạch Sài Gòn vào năm 1890 của Betraux tỏ ra rất xuất sắc, hầu hết ý tưởng được hiện thực hóa và nó có giá trị cho đến tận năm 1954.
Có thể nói đề án quy hoạch này mang tính khoa học rất cao. Lần đầu tiên các yếu tố địa hình, địa mạo, địa chất, khí hậu, thủy văn được quan tâm đúng mức. Chính nhờ khảo sát tốt mà sau gần 200 năm các công trình xây dựng, các hạ tầng kỹ thuật đa phần vẫn còn sử dụng rất tốt. Lần đầu tiên các nguyên tắc của toán học, hình học phẳng, hình học không gian được đưa vào phục vụ cho thiết kế. Các ô phố và đường sá được bố cục theo ô vuông bàn cờ, các trục đường chính được bắt đầu từ sông Sài Gòn để đón gió, ở các điểm giao nhau có vòng xoay (tiểu đảo, bùng binh), các công trình điểm nhấn, các tổ chức không gian chức năng đã được thực hiện rất tốt, mật độ cây xanh, không gian công cộng, khoảng lùi các công trình, chiều cao công trình và các công trình kỹ thuật (thoát nước, vỉa hè, cống...) đã được thực hiện một cách hoàn chỉnh đến kinh ngạc. Các con đường được đặt tên (chủ yếu mang tên Pháp) và các căn nhà được đánh số theo thứ tự, điểm khởi đầu cho việc đánh số các dãy nhà tỏa ra theo hình tia mặt trời là từ nhà thờ Đức Bà là số 1 và nhà Bưu điện TP là số 2. Với một sự cố ý, các nhà quy hoạch Pháp đã tạo ra được một lòng chảo xanh mà tâm điểm là nhà thờ Đức Bà, nhà ở trong khu vực này cao không quá hai tầng, cây xanh, thảm cỏ, vườn hoa phủ khắp nơi.
Rõ ràng người Pháp đã tạo ra được một không gian kiến trúc cổ điển đậm phong cách châu Âu một cách hài hòa, lãng mạn và tuyệt đẹp. Các bức họa đồ và các bức ảnh còn giữ lại cho đến hôm nay cho thấy người Pháp đã quy hoạch và xây dựng thành công một Sài Gòn hiện đại ngay vào thời kỳ đó theo đúng tinh thần “là một bản sao của một TP có quy mô trung bình của Pháp”.
Với một sự cố ý, các nhà quy hoạch Pháp đã tạo ra được một lòng chảo xanh mà tâm điểm là nhà thờ Đức Bà.
Phát triển giao thông nội ô và liên vùng
Từ năm 1860 đến 1914, TP Sài Gòn về cơ bản đã có được cơ sở hạ tầng kỹ thuật đạt chuẩn đủ phục vụ cho khoảng 350.000 dân cư. Một số lĩnh vực như giao thông, bưu chính viễn thông, dịch vụ ngân hàng, y tế cho thấy Sài Gòn đã cao hơn hẳn các TP ở Đông Nam Á trong cùng thời gian.
Sau khi chiếm được toàn bộ Nam kỳ năm 1867, Pháp đổ nhiều công sức để xây dựng Sài Gòn thành thủ phủ của cả Đông Dương. Một trong các tiêu điểm quan trọng là xây dựng hệ thống giao thông nội ô. Cho đến năm 1911, số đường phố lên đến 94 con đường với tổng chiều dài là 93 km, trong đó có sáu đại lộ. Từ năm 1905 đã bắt đầu có những con đường trải nhựa. Đến năm 1930 Sài Gòn có 125 con đường, Chợ Lớn có 164 con đường, tổng cộng là 344 con đường với 260 km. Năm 1870 bắt đầu trồng cây hai bên đường, một số con đường được trồng các loại cây quý và thống nhất như dầu, sao, lim, sẹc. Ngày nay ở TP nhiều con đường vẫn còn giữ được những hàng cây đó, chẳng hạn như Nguyễn Du, Lê Thánh Tôn, Sương Nguyệt Ánh, Ngô Gia Tự, Huyền Trân Công Chúa... Năm 1873 chính quyền TP cho tiến hành xây, lát vỉa hè, ốp vỉa bằng loại đá khối xanh trên nhiều tuyến đường ở trung tâm TP. Ngày nay chúng ta vẫn còn thấy những loại đá này ở các con đường Lý Tự Trọng, Lê Thánh Tôn, Nguyễn Du, Đồng Khởi.
Năm 1881 khởi công tuyến xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho dài 71 km, đưa vào sử dụng ngày 20-7-1885.
Cũng năm 1881 khánh thành đường xe điện Sài Gòn-Chợ Lớn dài 5 km, rộng 1 m; năm 1882 đưa vào khai thác. Năm 1863-1866, xây dựng xong cảng Sài Gòn. Năm 1867 có hệ thống chiếu sáng đường phố, lúc đầu dùng dầu dừa, sau đó đến năm 1869 thắp đèn đường bằng dầu hỏa, năm 1873 dùng gas, mãi đến năm 1900 mới có đèn đường bằng điện, về sau số lượng các con đường có sử dụng đèn chiếu sáng ngày càng nhiều hơn do có nhà máy điện ra đời năm 1909. Năm 1889 thiết lập tuyến xe Sài Gòn - Gò Vấp - Hóc Môn chạy bằng hơi nước, bắt đầu khai thác ngày 17-9-1897 và năm 1913 chạy bằng điện. Năm 1902 xây cầu Bình Lợi qua sông Sài Gòn dài 40 m, có làn đường sắt dành cho tàu hỏa xuyên Việt. Năm 1902 làm xong đường bộ Sài Gòn-Bà Rịa. Năm 1910 làm đường xe lửa Sài Gòn-Nha Trang.
Hệ thống liên hoàn các dịch vụ xã hội
Để phục vụ cho đời sống của TP, người Pháp đã chú ý đến việc hình thành các cơ sở kỹ thuật hạ tầng như cấp nước, điện. Tuy nhiên, hệ thống điện và nước sạch này ban đầu chủ yếu dành cho người Pháp, các quan chức cao cấp, người Việt giàu có và có dành một phần điện, nước sạch cung cấp cho các hoạt động dịch vụ công ích (tuy còn hạn chế). Sau năm 1920 đã bắt đầu mở rộng dần ra đến nhân dân theo hướng lan tỏa dần ra từ hai trung tâm Sài Gòn và Chợ Lớn với các loại dịch vụ sử dụng phải trả tiền. Cùng với việc phát triển hệ thống dịch vụ kỹ thuật thì người Pháp cũng chú ý phát triển các dịch vụ xã hội. Cho dù chúng còn rất nhỏ bé và sơ khai nhưng có một ý nghĩa quan trọng bởi vì chúng được hình thành theo ý tưởng hiện đại hóa và tiệm cận gần với các dịch vụ của các nước phương Tây vào thời kỳ đó. Một vài dấu ấn sau đây cần nhắc đến:
Năm 1873, hình thành nên hệ thống cấp nước sạch cho một vài khu dân cư cao cấp bằng tháp nước thấp. Năm 1879, hoàn thành việc xây cất tháp nước cao hình cây nấm ở Sài Gòn bằng bê tông cốt sắt. Năm 1882, nhà máy cung cấp nước sạch được khánh thành.
Năm 1863, khánh thành Sở Bưu điện, phát hành con tem đầu tiên và hệ thống chuyển phát thư.
Thường nói Sài Gòn là nơi có truyền thống “đi trước về sau”, chính Sài Gòn là nơi đi trước, khởi đầu cho tiến trình hiện đại hóa ở Việt Nam. Đó không chỉ là di sản mà thực sự là những tiền đề vô cùng quan trọng đặt nền móng cho Sài Gòn - TP.HCM trở thành một TP văn minh - hiện đại - thân thiện.
Những cột mốc phát triển hạ tầng Sài Gòn Năm 1870: Xây dựng BV Grall (ngày nay là BV Nhi đồng 2). Năm 1877-1880: Xây dựng nhà thờ Đức Bà bằng bê tông cốt thép theo phong cách Gothic. Năm 1881-1885: Xây dựng tòa án. Năm 1882: Thành lập Thư viện Sài Gòn. Năm 1885: Xây dựng khách sạn Continental. Năm 1886-1891: Xây dựng nhà Bưu điện TP. Năm 1889: Lập đường dây điện thoại đầu tiên ở Đông Dương. Năm 1898-1909: Xây dựng dinh Xã Tây làm trụ sở của bộ máy cầm quyền của TP, nay là UBND TP. Năm 1911-1014: Xây dựng chợ Bến Thành. Năm 1924: Thành lập Công ty Điện ảnh Đông Dương. Năm 1927-1929: Thành lập bảo tàng - nay là Bảo tàng Lịch sử TP. Năm 1927: Thành lập Ngân hàng Việt Nam. Năm 1929: Thành lập Đài Phát thanh Sài Gòn. Năm 1930: Khánh thành đường vô tuyến điện thoại Sài Gòn-Paris. Năm 1938: Thành lập Sở Hàng không |