Như PLO đã thông tin, ngày 15-7, Chánh án TAND Cấp cao tại TP.HCM Trần Văn Châu đã ký kháng nghị giám đốc thẩm vụ án tranh chấp giữa vợ chồng ông Phan Quý, bà Lê Thị Bích Thủy và các bị đơn là ông Lê Văn Dư, Lê Sỹ Thắng, Khâu Văn Sĩ.
Quyết định kháng nghị được đưa ra sau đúng 2 tuần kể từ khi TAND TP.HCM tuyên án phúc thẩm. Chính sự kiện vợ bị đơn Dư chạy ra hành lang tòa án định nhảy lầu tự tử ngay sau khi tòa tuyên án phúc thẩm vào ngày 1-7 đã thu hút sự chú ý của dư luận, báo chí. Sau đó, TAND TP.HCM đã có báo cáo đồng thời TAND Cấp cao cũng đã chủ động xem xét các vấn đề xung quanh vụ án này.
Đặc biệt, các căn cứ và lập luận mà kháng nghị nêu ra gần như trùng hợp với quan điểm của báo Pháp Luật TP.HCM đã phân tích gần đây về vụ án này.
Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của TAND Cấp cao tại TP.HCM
Kháng nghị đề nghị Ủy ban thẩm phán TAND Cấp cao xử giám đốc thẩm theo hướng hủy hai bản án sơ và phúc thẩm để TAND quận Gò Vấp xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Kháng nghị cho rằng cấp phúc thẩm xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án là tranh chấp quyền sử dụng đất là không đúng. Bởi tranh chấp nêu trên xuất phát từ quan hệ hợp đồng, do đó quan hệ tranh chấp trong trường hợp này là tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử đụng đất. Về thời hiệu khởi kiện, vụ án này, thời hiệu khởi kiện vẫn còn.
Nhấn mạnh về nội dung vụ án này, kháng nghị phân tích về yêu cầu khởi kiện cũng như yêu cầu phản tố của hai bên nguyên bị trong vụ án.
Cụ thể, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu tòa tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng đất với các bị đơn là chưa có hiệu lực pháp luật, không tiếp tục thực hiện hợp đồng và buộc trao trả lại 674m2 đất.
Như vậy, thực chất yêu cầu này là yêu cầu tuyên bố hợp đồng giao dịch dân sự vô hiệu. Lý do các bị đơn tự ý chuyển nhượng qua lại cho nhau và xây dựng trái phép trên đất nhưng không được sự đồng ý của nguyên đơn.
Vợ chồng ông Dư (trái) và ông Thắng tại khu đất đã mua từ nhiều năm nay. Ảnh: MINH CHUNG
Kháng nghị cho rằng các lý do nguyên đơn trình bày không thuộc phạm vi thoả thuận giữa các bên khi xác lập giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất và không ảnh hưởng quyền lợi của nguyên đơn.
Trong khi đó, các bị đơn đã thanh toán tiền, nhận đất và sử dụng nhiều năm nhưng nguyên đơn không tranh chấp. Hợp đồng chuyển nhượng đã thực hiện thì lý ra các bên phải tiếp tục cho đến khi hoàn tất mọi thủ tục theo quy định pháp luật.
Vì vậy việc nguyên đơn yêu cầu tuyên bố vô hiệu là không phù hợp. Hai cấp sơ và phúc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn là đều không đúng pháp luật.
Bị đơn phản tố đề nghị công nhận hợp đồng chuyển nhượng. Hợp đồng khi được ký với bị đơn Sỹ 500m2 tai thời điểm nguyên đơn chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Còn hai hợp đồng chuyển nhượng với hai bị đơn Dư, Thắng là không đủ điều kiện tách thửa theo quy định. Các hợp đồng này chuyển nhượng bằng giấy tay, không công chứng, chứng thực.
Như vậy, tại thời điểm xác lập các giao dịch đều vi phạm về các điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, cho đến thời điểm phát sinh tranh chấp, nguyên đơn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì hợp đồng chuyển nhượng giữa các bên không được coi là vô hiệu do vi phạm điều kiện chưa có quyền sử dụng đất hợp pháp, hợp đồng không có công chứng chứng thực của cơ quan thẩm quyền.
Mặt khác, toàn bộ 674m2 đã được các bên thống nhất chuyển nhượng cho ông Dư, đảm bảo điều kiện tách thửa theo quyết định 190 của UBND TP (đất nông nghiệp phải từ 500m2 trở lên mới được tách thửa) do không vi phạm về điều kiện tách thửa.
Điểm b khoản 1 Điều 688, BLDS 2015 quy định về điều khoản chuyển tiếp: "Giao dịch dân sự chưa được thực hiện hoặc đang được thực hiện mà có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này thì áp dụng quy định của Bộ luật này".
Như đã phân tích, hợp đồng giũa các bên đang trong quá trình thực hiện thì phát sinh tranh chấp. Các bên nhận chuyển nhượng đã nhận đất và thanh toán đủ tiền. Vì vậy trường hợp này cần áp dung khoản 2, điều 129, BLDS 2015 giải quyết.
Hình thức và nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên đương sự đã xác lập là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 nên yêu cầu phản tố đề nghị công nhận hợp đồng của ông Lê Văn Dư là có cứ.
Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần còn tòa cấp phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không áp dụng đầy đủ các quy định pháp luật nên cần phải được xem xét lại.
Trong trường hợp không phát sinh thêm tài liệu chứng cứ nào khác phải công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo yêu cầu phản tố của ông Dư.
Nếu có chứng cứ khác xác định hợp đồng chuyển nhượng vô hiệu thì tòa phải giải quyết hợp đồng hậu quả của hợp đồng vô hiệu mới đảm bảo độ được quyền và lợi ích của các bên.
Từ đó, kháng nghị toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm, đề nghị hủy cả hai bản án giao hồ sơ về cho TAND quận Gò Vấp xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật và tạm đình chỉ thi hành bản án dân sự phúc thẩm.