Theo hồ sơ, ông K. khai cho ông Đ. ở nhờ trên đất mình. Tháng 7-2013, ông Đ. thỏa thuận mua giấy tay 50 m2 đất của ông với giá 10 triệu đồng. Chuyển nhượng xong, ông Đ. tự làm hàng rào lấn thêm đất ông nên ông khởi kiện ra TAND quận Thốt Nốt yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa hai bên, buộc ông Đ. trả lại 110 m2 (gồm 60 m2 đất và 50 m2 tính giá trị bằng tiền).
Trong khi đó, ông Đ. bảo nguồn gốc đất đó do ông bà của ông để lại. Vì không biết cha mình từng được cấp giấy đỏ năm 1991 nên ông mới làm giấy tay mua lại từ ông K. Nay ông phản tố yêu cầu tòa công nhận ông có quyền sử dụng phần đất tranh chấp và buộc ông K. trả lại cho ông 10 triệu đồng do chuyển nhượng nhầm lẫn.
Xử sơ thẩm, TAND quận Thốt Nốt buộc ông Đ. trả lại gần 126 m2 đất và trả lại gần 60 triệu đồng giá trị 66 m2 đất. Tòa bác yêu cầu phản tố của ông Đ., ghi nhận việc ông K. tự nguyện trả cho ông Đ. 10 triệu đồng. Sau đó, hai bên đều kháng cáo: Ông K. yêu cầu tòa phúc thẩm buộc ông Đ. trả lại gần 162 m2 đất, chỉ cho ông Đ. ở 30 m2; ông Đ. yêu cầu tòa phúc thẩm chấp nhận phản tố của mình.
Theo tòa phúc thẩm, ông K. kiện đòi 110 m2 nhưng cấp sơ thẩm lại buộc ông Đ. phải trả gần 126 m2 là vượt quá yêu cầu khởi kiện của ông K. trong khi ông này không có đơn khởi kiện bổ sung.
Cạnh đó, trước yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông K., ông Đ. phản tố là buộc ông K. trả lại 10 triệu đồng do chuyển nhượng nhầm lẫn nhưng cấp sơ thẩm không xem xét. Thay vào đó, cấp sơ thẩm công nhận việc ông K. tự nguyện trả lại 10 triệu đồng, không tuyên hủy hay không hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa hai bên là không giải quyết dứt điểm vụ án và chưa đúng quy định của pháp luật.
Mặt khác, cấp sơ thẩm chưa xác định ông Đ. đang sử dụng bao nhiêu đất, thừa hay thiếu so với giấy đỏ, trong khi ông K. đang sử dụng phần đất mà chưa tính diện tích tranh chấp thì đã dư 49,5 m2 so với giấy đỏ.
Về chứng cứ, cấp sơ thẩm hai lần gửi công văn hỏi UBND quận Thốt Nốt và đều được UBND quận trả lời bằng văn bản nhưng cấp sơ thẩm không đánh giá hai chứng cứ này để giải quyết vụ án là chưa đảm bảo quyền lợi của các đương sự. Từ đó, tòa tuyên hủy án như trên.