Bức thư

Thưa các anh, các chị!

Tôi, một kẻ bây giờ đã hầu như đang tự bắt mình chìm dần vào quên lãng. Nhưng trí óc tôi vẫn hằn lên câu chuyện cuộc đời mình. Tôi không hằn học. Không thù oán. Đã không còn hy vọng gì. Chỉ thỉnh thoảng, tôi chạnh buồn cho thân phận của mình, thân phận một người phiêu bạt nơi đất khách. Gia đình tôi sang bên này từ năm 1954. Cha tôi là người quen biết rộng và luôn hướng tôi vào cuộc chiến mà ông kỳ vọng. Khi hiểu ra là mình bị lừa cũng là lúc cái chết ập xuống gia đình tôi.

Buổi chiều nay, tôi vừa chôn đứa con duy nhất của mình trong một khu rừng có nhiều cây to giống như khu rừng ngày trước tôi cùng các chiến hữu la hét và bắn giết. Mẹ đứa bé bỏ đi ngay sau khi nó chào đời. Đã 10 năm, người đàn bà, thiên thần tóc vàng, không hề có tín hiệu quay trở lại. Thoát khỏi cuộc chiến tranh chó chết, tôi vướng vào đứa bé. Cũng ngần ấy năm, tôi gần như câm lặng trước sinh linh nhỏ bé mà thiên thần tóc vàng bỏ lại. Rất nhiều lần, các trại nuôi dưỡng, các phòng thí nghiệm, các trung tâm nhân đạo thương thuyết nhưng tôi đều từ chối. Có những lúc tôi gầm ghè khiến mọi người bối rối, đôi chút sợ hãi và càng ngày càng xa lánh. Đứa bé dị dạng lớn lên trong im lặng. 10 năm, không ai nói chuyện với ai. Chỉ một mình tôi độc thoại với những cánh rừng chết. Những cánh rừng đã từng một thời tươi tốt như cánh rừng chiều nay tôi chôn nó. Tôi đào một cái hố. Xưa kia tôi từng đào rất nhiều hố nhưng đây là cái hố khó khăn nhất. Những tán cây xanh lừng lững ở trên đầu, ở xung quanh. Những du khách thản nhiên đi lại, có người lắc đầu nhìn tôi khó hiểu. Tôi vuốt khuôn mặt đẫm mồ hôi. Bên cạnh tôi là một bọc vải trắng muốt to chừng bằng cái túi nhảy dù xuống vùng rừng ngày xưa. Phía bên trái là cây sồi non có ba chạc. Có những lúc tôi ngừng tay xẻng nhìn lên trời. Đến sẩm tối, cuộc chôn cất xong xuôi. Cây sồi non ba chạc được tôi trồng rất cẩn thận. Không một ai hiện ra, tôi lững thững đi đến bên bức tường. Ngay cả người gác rừng tinh ranh cũng không hề biết điều đó.

Tôi rời khu rừng vào lúc trời khuya, đi về phía ga tàu điện ngầm lên chuyến đầu tiên về thành phố, ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh cửa sổ. Con tàu buồn thảm lao vun vút trong chiếc hang khổng lồ kéo dài tưởng bất tận. Tôi dường như quên mình đang đi đâu đến nỗi gã soát vé tỏ ra nghi ngờ và nhìn với con mắt đầy cảnh giác. Tôi đã quẳng chiếc ba lô vào thùng rác trước khi lên tàu. Nó là di vật cuối cùng gắn với cuộc sống đầy bất trắc của tôi. Đến khi chỉ còn lại một mình trong bến đỗ cuối, tôi kéo cổ áo chùm kín đầu ngồi thừ như một gã mất trí. Tôi đã mất tất cả. Tuổi trẻ. Hoài bão. Niềm tin và đặc biệt là đứa trẻ. Nó đã rời khỏi tôi như định mệnh. Tại sao định mệnh lại không sớm kết thúc số phận của tôi. Định mệnh dằng dặc trêu ngươi kể từ ngày rời khu rừng chết tiệt với món tiền chết tiệt thì tôi đã trở thành một con người hoàn toàn khác. Người đàn bà chờ đợi tôi đã bỏ lại giọt máu ra đi biệt vô tăm tích. Tại sao đã ở được với nhau, chờ đợi nhau hàng chục năm lại có thể buông nhau dễ dàng như thế. Nhiều lúc tôi đã định kết thúc cuộc đời mình bằng khẩu súng nhưng nụ cười ngơ ngác của đứa bé đã giữ tôi lại. Sống với đứa bé, tôi luôn ở một thế giới khác. Thế giới không có tiếng người và tiếng súng. Thế giới không có lừa lọc và những cánh rừng cháy. Tôi im lặng bên đứa bé cũng im lặng từng ấy năm. Nó chưa nói với tôi một tiếng nào đã sớm giã từ thế giới. Nó tìm đến thế giới của nó. Một thế giới tôi không thể hiểu nổi và không bao giờ đến được. Thế giới của thiên thần bay lượn với những đôi cánh sắc vàng lung linh. Kể từ khi chiếc trực thăng đổ bọn tôi xuống khu rừng tôi đã linh cảm đến điều này. Và bây giờ là khẳng định chắc chắn. Chắc chắn và tàn nhẫn khi người đàn bà hét lên nhìn giọt máu ngọ nguậy phập phồng không ra hình dạng gì. Tôi lao đến an ủi nhưng ả câm lặng và bỏ đi sau đó một tuần. Ả không chịu nổi sự thật.

Khi nó đã quen với môi trường sống và lẫm chẫm đi được, tôi đón về căn hộ của mình, căn hộ có duy nhất một cửa ra vào và một cửa sổ nhỏ sát góc, nơi những luồng sáng yếu ớt rót xuống mỗi ban mai. Tôi đóng một cái cũi gỗ, bỏ đứa trẻ vào đấy mỗi khi rời khỏi căn hộ. Đứa bé không nói không rằng chỉ ngơ ngác cười. Với tôi, nó cũng như bao đứa trẻ khác trên hành tinh này, mặc ai đó nhìn vào đều hãi sợ bề ngoài của nó. Đêm xuống, khi đứa bé ngủ, tôi thì thầm nói chuyện với nó suốt đêm, hứa suốt đời sẽ ở bên con. Phần còn lại của cuộc đời tôi nguyện chỉ làm việc duy nhất ấy. Thế mà công việc mới diễn ra được tám năm đã kết thúc.

Mọi cái chết có thể được hiểu như một giải thoát, thậm chí một ước mơ. Người chết được lên thiên đường hay đơn giản là một thế giới khác tốt đẹp hơn. Công việc còn lại của tôi thật đơn giản. Tôi đứng dậy đi tìm một tấm vải trắng dài quấn nhiều vòng thi thể. Tấm vải trắng dài thượt, trắng dợn lên như cái tổ kén cuộn từng vòng, từng vòng đều tăm tắp. Tôi lục tìm một cái hòm gỗ nhỏ có khắc vài chữ số trên một phù hiệu đồng, bế nó đặt vào trong ấy. Tôi quỳ hẳn xuống, tóc phủ lòa xòa lên khuôn mặt con. Giây lâu, tôi đứng dậy, đặt chiếc nắp gỗ lên trên, nện từng nhát búa xuống chiếc hòm gỗ. Khoác thằng bé trên vai, tôi chậm chạp đi vào khu rừng thành phố. Trên tay cầm theo một cây thông nhỏ. Những cành lá nhỏ xíu của nó vẫy vẫy như chào đón cuộc đời.

Tôi đã quay về căn phòng của mình. Đêm vây bủa từ bốn phía, sự im lặng kinh hoàng bao bọc căn phòng bây giờ tưởng như mênh mông bất tận. Tôi ngồi bó gối nhìn về phía góc phòng, nơi hôm trước thằng bé lũn cũn đi lại trong những lo âu. Không ngờ mọi sự lại kết thúc chóng vánh và tàn nhẫn đến thế. Trong căn phòng không có ánh sáng, tôi vẫn ngồi bó gối nhìn hút về phía khu rừng, nơi có cây thông, nơi có niềm tin cuối cùng mà tôi gieo xuống như một cất giấu bản năng bí ẩn. Ngồi mãi, ngồi mãi. Đêm đen trở nên quen thuộc. Tôi lục sục đứng dậy, tìm chai rượu mạnh, thứ mà tôi đã rời xa nó kể từ ngày người đàn bà bỏ đi. Bây giờ thằng bé làm bạn với cây thông. Nó đã tìm được khu rừng mơ ước của mình, chỉ còn tôi với bầu trời xám và đêm đen dằng dặc. Từng ngụm rượu chảy tràn qua cổ họng như những ngọn lửa nhỏ đốt mãi, đốt mãi từng mẩu ký ức, những ký ức đứt nối, mơ hồ được soi rọi rõ dần trong những ngọn lửa cháy miên man.

Bức tường đen thẫm li ti chữ và con số nằm sừng sững im lìm trong đêm. Mặt đá nhẵn toát ra những chùm hơi nước lờ đờ tưởng như những dòng chữ đang khóc. Nhiều cái tên, hàng trăm hàng ngàn cái tên, hàng chục ngàn cái tên với nhiều ký tự khác nhau u i móc nối, u i dội ra những âm thanh ngắt quãng một cách bí ẩn. Ban ngày, rất nhiều hoa được người ta đem đến đặt xuống chân bức tường. Ong và bướm, lũ côn trùng mẫn cảm với hương hoa gọi nhau kéo đến. Chúng dập dờn chao lượn trên những hàng chữ, con số li ti không biết mỏi. Gió đánh vào mặt tường xụ dạt lũ bướm ham chơi, có con bị gió quất dúi xuống mặt cỏ giập cánh không gượng được lên. Có con bị mắc kẹt vào những cánh hoa sặc sỡ và chết thiếp đi ở trong ấy. Hàng trăm hàng ngàn bó hoa hằng ngày con người kiên nhẫn đặt xuống chân bức tường và buổi tối xe rác của thành phố đến mang đi, đồng thời dọn dẹp những xác ong bướm vương vất cùng những cánh hoa gãy nát.

Tôi như cái bóng đêm đêm đến bên cạnh bức tường. Không ai biết tôi đã lầm rầm những gì và người trông coi khu vực ấy đã rất ngạc nhiên khi thấy xuất hiện thêm một dòng chữ khắc bén nhọn vào mặt đá sáng sâu hơn những dòng chữ khác. Ở những vết khắc còn vụng về không biết đã bằng cách nào xuất hiện ấy, kể cả những lúc trời nắng, bức tường khô khốc như một thỏi nham thạch không hiểu sao luôn ri rỉ nước thấm loang ra xung quanh. Đêm nào cũng vậy, tôi lặng lẽ đến bên bức tường, lặng lẽ dõi nhìn những dòng chữ luôn đẫm nước rồi lặng lẽ đến với cây thông nhỏ giờ đã vạm vỡ trong khu rừng có nhiều gió. Tôi luôn tin rằng ở một thế giới khác, thế giới thiên thần của thằng bé, của con tôi sẽ không bao giờ có những gì mà cuộc đời tôi và nhiều người khác phải gánh chịu. Ước mơ giản dị ấy, loài người đang sống hôm nay có bắt tay thực hiện nó?

Đó là những gì mà sau bao dằn vặt, ngập ngừng giữa im lặng hay nói ra của bức thư này.

Tôi không có quyền im lặng.

Điều đó không biết có đúng không?

Truyện ngắn PHÙNG VĂN KHAI

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm