TS Đậu Ngọc Đản (Ngọc Đản) và nhà báo Hoàng Thiểm là nhà báo miền Bắc đầu tiên có mặt ở dinh Độc lập vào trưa 30-4-1975.
Các chiến sĩ Đoàn Phú Xuân giải phóng Huế ngày 26-3-1975.Ảnh Ngọc Đản chụp trước cửa Ngọ Môn - Huế |
Theo bước chân thần tốc của chiến dịch Đại thắng Mùa Xuân, nhà báo Ngọc Đản lúc đó đã vượt đèo Hải Vân và “Nam tiến” ra sao?
- Tháng 2-1975, tôi được vào Nam, theo bước các binh đoàn trong cuộc tổng tiến công, nổi dậy. 26-3-1975 có mặt ở Huế. Đi xe Honda vượt Hải Vân, ngày 29-3-1975 có mặt ở Đà Nẵng. 29-4-1975 đến Xuân Lộc.
Gặp Cục trưởng Cục Văn hóa Hồng Cư, sau này là Trung tướng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Chủ nhiệm Chính trị Quân đoàn 2 Lê Khả Phiêu, sau này là Tổng Bí thư của Đảng, được các ông trực tiếp giao nhiệm vụ đi ngay vào Sài Gòn, theo trung đoàn 66 của 304. Rồi gặp và bám xe tăng thứ tư của Lữ đoàn 203..
Là tác giả bức ảnh lịch sử “Cô Nhíp” - chiến sĩ biệt động Nguyễn Trung Kiên dẫn đường cho xe tăng ta tiến vào Sài Gòn năm 1975, sau gần 40 năm kể từ ngày bấm máy, ông có thể nói thêm điều gì?
- Tôi gặp cô Nhíp ở Tân Sơn Nhất. Thấy xe tăng cắm cờ Quân giải phóng, lại có cô gái đẹp, vừa hiền dịu, vừa hiên ngang. Hỏi, được biết là xe tăng Quân đoàn 3, cô gái tên là Cao Thị Nhíp, tên hoạt động là Nguyễn Trung Kiên.
Nhíp con nhà nghèo, quê Tiền Giang, lên Sài Gòn hoạt động cách mạng, tham gia biệt động thành dưới vỏ bọc là người làm công cho gia đình một sĩ quan. Vốn thông thuộc đường sá, Nhíp đã dẫn đường cho xe tăng ta vào đánh Tân Sơn Nhất và các vị trí quân sự khác.
Nữ chiến sĩ biệt động Sài Gòn Cao Thị Nhíp (bí danh Nguyễn Trung Kiên) dẫn đường cho xe tăng Quân đoàn 3 tiến đánh sân bay Tân Sơn Nhất |
Ngay khi gặp cô Nhíp bên xe tăng, tôi đã bị cái đẹp cuốn hút, cảm giác ngay rằng đây là một hình tượng. Hình tượng của tổng tiến công (quân chủ lực) và nổi dậy (nhân dân). Hình tượng Việt Nam: Nụ cười tươi sáng, hiền dịu, yêu hòa bình nhưng kiên cường gan góc, quyết thắng. Trong tư thế chiến thắng, toát lên sự nhân hậu, vị tha…
Đồ nghề tác nghiệp của ông lúc đó?
- Sổ tay, bút máy Hồng Hà, máy hiệu Canon, ống kính liền, chỉ một tiêu cự. Trước đó tôi chủ yếu chụp bằng máy Kiep.
Nhà báo Ngọc Đản (đội mũ tai bèo phía sau) đang tác nghiệp tại Sở chỉ huy mặt trận B5 năm 1972. Ảnh chính diện là Tướng Lê Trọng Tấn - Tư lệnh mặt trận |
Trưa 30-4 ấy, từ dinh Độc Lập tôi không đi về Đài Phát thanh, mà tìm cách chuyển bài vở nhanh ra Bắc. Trong sân, rất nhiều nhân viên, tùy tùng của chính phủ Sài Gòn đứng đợi. Tôi nói to, dõng dạc: “Chúng tôi là phóng viên ở miền Bắc vào. Đây là thời cơ lập công của các ông. Ai có thể chở chúng tôi đến sân bay Tân Sơn Nhất?”.
Năm sáu cánh tay giơ lên. Tôi chỉ vào một người. Đó chính là Võ Cự Long, sĩ quan lái xe dẫn đường của nội các Sài Gòn. Nhưng đến Tân Sơn Nhất, không có máy bay. Chúng tôi phải đi thẳng ra Đà Nẵng mới chuyển được. Phản ứng nghề nghiệp ấy trước hết là do tính cấp bách, trọng đại của công việc, của lời thề người lính khi nhận nhiệm vụ, phải “tận tâm tận lực thi hành một cách nhanh chóng và chính xác”.
Luôn có mặt ở điểm nóng
Khi chuyển về báo Nhân Dân, ông có nhiều bài viết xuất sắc về quân sự. Đặc biệt, ông là người đầu tiên và là người có nhiều bài viết gây xúc động về cuộc chiến đấu, hy sinh của các chiến sĩ đảo Gạc Ma. Kinh nghiệm của một phóng viên chiến tranh và điều gì nữa giúp cho ông có được sự “độc quyền” này?
- Lại một tình cờ, ngẫu nhiên nữa. Đầu tháng 3-1988, tôi khi đó là phóng viên của báo Nhân Dân, được cử đi công tác Trường Sa cùng bộ đội hải quân. Chuyến đi xuất phát tại quân cảng Cam Ranh.
Đến phút chót, có lệnh: Các sĩ quan và chiến sĩ trên chuyến tàu ra đảo Sinh Tồn, Len Đao, Gạc Ma sẽ chốt giữ lại trên đảo dài ngày, tàu không quay lại đất liền như dự định. Đương nhiên tôi bị gạt lại, chờ chuyến khác.
Xe tăng Lữ đoàn 203 tiến vào dinh Độc Lập ngày 30-4-1975. Ảnh Ngọc Đản chụp lúc 11h30 ngày 30-4-1975 |
Rồi chiến sự nổ ra vào ngày 14-3-1988, nhờ vị thế báo Nhân Dân, và máu nghề, tôi được nghe thông tin chiến sự trong giao ban, lăn lộn lắng nghe phản ứng và tình cảm của dân chúng.
Liên tiếp các ngày đó tôi thức viết liên tục và gửi về tòa soạn hàng chục bài báo và được đăng kịp thời như Trường Sa trong lòng hậu phương Phú Khánh (22-3-1988); Cuộc tiến công bằng tàu khu trục mang tên lửa của Trung Quốc vào ba tàu vận tải không có vũ khí tiến công của ta ở vùng đảo Sinh Tồn (24-3-1988). Rồi các bài kể về sự hy sinh của thiếu úy Trần Văn Phương trên đảo Gạc Ma, Tàu S-71 giữa sóng lớn Trường Sa...
Nay đã nghỉ hưu, nhưng ông vẫn năng nổ, say mê với nghề báo. Vì sao vậy? Nghề báo có gì thu hút? Làm báo bây giờ có khó hơn trước không, thưa ông? Điều gì cần nhất hay là một nguyên tắc tóm lược cho nghề báo?
- Nghề báo là một nghề hay, hấp dẫn, phù hợp sở trường của tôi. Hay thì khó bỏ. Tôi cảm nhận được cái hay này lần đầu tiên khi nhận giải báo Hà Tĩnh. Chỉ là một học sinh, vì bài báo mà cả xã, cả huyện biết đến và ai cũng tôn trọng.
Nhà báo Ngọc Đản (bên phải) và các đồng nghiệp vượt đèo Hải Vân, từ Huế đến TP Đà Nẵng tháng 3-1975 |
Nghề báo là một nghề hay vì được đi nhiều, nghe nhiều do đó học được nhiều; và bắt phải không ngừng học hỏi để tiến mãi, nhất là học trong cuộc sống, học để sống. Làm báo không muốn mới cũng phải mới, nên được và phải làm mới mình liên tục. Sự phát triển của xã hội đòi hỏi người làm báo đi nhiều, đọc nhiều, lúc nào cũng cảm thấy kiến thức của mình hạn chế.
Nghề báo hay vì có nhiều bạn, bạn đủ các giới; và nói được tiếng nói của dân, có khi đại diện được cho họ - tức là con người mình được nhân lên; được dân tin mến, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ; ở nơi nào cũng được tôn trọng.
Và khi đã là nhà báo, dù không chức vụ gì, anh vẫn được người ta nhớ, vẫn làm việc mãi.
Cuộc sống nghề làm báo, đó là đam mê, có ước vọng cống hiến, có niềm tin chân lý và chiến đấu để bảo vệ nó, không lung lạc trước mọi cám dỗ, quyền lợi trái ngược với đạo lý. Làm báo là làm chính trị nhưng không lợi dụng nó để mưu cầu lợi ích riêng.
Theo Nguyễn Sĩ Đại (Vietnamnet)